Thực
tập thiền định theo
phương pháp của Ngài Mahasi Sayadaw
Chánh
niệm lúc đi kinh hành
TT Giác Đẳng
chuyển ngữ Việt - Ngày 23 tháng 1 năm 2006
Chánh Hạnh chuyển
biên thành văn bản
Tiếp theo loạt
bài hướng dẫn thực tập thiền quán theo cách
của Ngài Mahasi Sayadaw được hướng dẫn tại
IMS, chúng ta đi sang một bài học mới, đó là hướng
dẫn sự duy tŕ chánh niệm trong lúc đi kinh hành. Chúng tôi xin nêu lên tại đây một
vài điểm:
1/ Đây là bài hướng dẫn tại
trung tâm thiền định cho những thiền sinh đang
có mặt trong thiền đường. Đó là ngôi nhà rộng
lớn có đủ chỗ cho các thiền sinh chia nhau những
lối đi để vừa đi tới đi lui vừa
lắng nghe những điều cần lưu ư trực tiếp
của thiền sư. Bài hướng dẫn này được
trực tiếp hướng dẫn bởi ông Joseph Goldstien,
vị sang lập viên của Insight Meditation Society, một
trong những vị giảng sư đầu đàn của
trung tâm thiền này.
2/Chữ tiếng anh Walking Meditation rất đơn
giản. Chữ Walk chúng ta dịch
là đi bách bộ, đi tản bộ hay đi bộ. Đối với tiếng Việt từ này có một
chút đặc biệt. Tiếng Phạn
Cankamana dịch là kinh hành, sau này HT Nhất Hạnh dịch
là thiền hành. Chữ
Hành ở đây là đi, không có nghĩa thực hành ( practise) là đi gíông như có chữ Dạ hành là đi ban đêm
hay là Song hành : cùng đi trên
đường. Từ Kinh trong tiếng Hán, tuy có một cách
đọc nhưng có rất nhiều nghĩa như Kinh tướng
, Kinh điển v.v…chữ Kinh hành ở đây được
hiểu như Đi có chánh niệm , trong cái Đi đó có
sự thực tập. Trong Tịnh độ
tông có chữ Kinh hành niệm Phật. Sau này có một số
vị trong đó có HT Nhất Hạnh dịch là Thiền hành. Thiền hành có nghĩa là chánh niệm
trong bước đi của ḿnh. Chữ
Thiền hành cũng có đôi chút làm bối rối, v́ nhiều
người tưởng là đảo ngữ của chữ
Hành thiền.
Hành thiền
là tu tập thiền
Thiền hành là chánh niệm trong từng bước
đi.
Hai chữ Hành này mang hai ư nghĩa khác
nhau. Một bên là thực hành (practise) một
bên là đi (walk).
Bài hướng dẫn này cho các thiền
sinh đang ở trong thiền đường và mỗi người
đều có một lối đi. Quư vị đa số
ngồi trước máy computer theo dơi bài
học. Nếu quư vị có điều kiện
như đang ở trong pḥng tương đối rộng
và có một speaker lớn để trong lúc chúng tôi nói chuyện
qúy vị có thể nghe được. Với
những động tác được hướng dẫn
nhịp nhàng trong bài học này quư vị có thể tự thực
hành đi kinh hành được.
Cách đi thiền hành của HT Nhất Hạnh khác hoàn
toàn với cách đi nói theo chữ Sankrit
giống như cankamana. Cách đi kinh hành trong
Tịnh độ tông và cách đi kinh hành trong thiền quán
khác nhau. Nhiều người khi nói đến chữ
thiền hành trong cách của HT Nhất Hạnh là đi tản
bộ bên ngoài trời và đi một đoạn đường
rất xa, có thể đi cả một khu rừng từ lối
này qua lối kia. Cách đi
này không phải như vậy. Thêm nữa trong cách đi
kinh hành niệm Phật. Thường trong mùa an cư của
quư Thầy Bắc tông hay trong cách kinh hành niệm Phật của
Tịnh độ tông, người ta đi chung quanh một
tượng Phật và vừa đi vừa niệm Phật.
Kinh hành đó giống như cách đi nhiễu Phật ở
trong kinh điển Pali nhiều hơn cách đi kinh hành
trong thiền quán. Chúng tôi sở dĩ giải thích như vậy
v́ chữ thền hành hay kinh hành được dùng theo ngôn
ngữ Phật giáo Việt Nam, một cái theo HT Nhất Hạnh
đi một đoạn đường rất dài đi
xuyên qua một khu rừng hay đi qua một công viên, cách đi
đó không được gọi là walking meditation mà chúng ta
gọi tại đây. Trong cách hướng dẫn này người
ta làm một con đường đi cho mỗi một thiền
sinh. Ví dụ tại một am thất nào trong trường
thiền như tại các trường thiền lớn tại
Thái Lan hay Miến Điện dưới
các am thất có đắp một con đường cao khoảng
một tấc (10cm) bằng đất hoặc có khi lót gạch.
Con đường đó dài khoảng 30 feet tức khoảng
10 thước. Con đường đó có giới hạn
nhất định, ban đêm có thể cắm nhang hai đầu,
nhang giúp cho thiền sinh biết thời lượng nào thích
hợp, đi từ đầu này đến đầu kia tàn cây nhang là kể như xong thời gian đi
kinh hành. Hành thiền lâu họ sẽ tự biết
giờ nào thích hợp. Con đường kinh hành không thể
quá ngắn và không thể quá dài.Thiền sinh đi một
chiều đến cuối đường sẽ quay trở
lại, nếu con đường quá ngắn phải quay
nhiều lần như vậy sẽ làm chóng mặt. Nếu
con đường quá dài sẽ làm mất khả năng định
vị của hành giả, tức là khả năng tạo nên
một thói quen có tính cách bản năng là hành giả đi đến
một mức độ nào đó sẽ thấy cần
quay lại. Hành giả đi kinh hành với chánh niệm nhưng
phải ngó con đường sẽ bị phân tâm. Bởi
thế cách đi kinh hành trong thiền Vipassana rất khác với
cách đi thiền hành của một số người Việt
Nam thực hành theo cách của HT Nhất Hạnh. Lư do v́ cách
đi trên đoạn đường dài và không quen thuộc
băng qua công viên của HT Nhất Hạnh, bắt buộc
hành giả phải đi theo đám đông hoặc giả
phải vừa đi vừa ngó chung quanh. Hành giả trong ṿng
mươi phút
phải quen thuộc với con đường kinh hành của
ḿnh, lúc đó hành giả sẽ thấy một thời lượng
vừa phải trong quăng cách đi tới và quay trở lại
chứ không tiếp tục đi măi. Trong thiền
tập có những điều không giải thích được
nếu quư vị không hành thiền, nhưng khi thực hành
quư vị sẽ thấy đúng như vậy. Ví dụ trong kinh nói một hành giả tu tập lúc
ngủ có chánh niệm nghĩ đến, tác ư đến giờ
thức dậy sẽ thức giấc đúng vào giờ đó
không cần báo thức. Ví dụ quư vị muốn ngày
mai thức dậy lúc 4 giờ, trước khi đi ngủ
quư vị để ư hơi thở của ḿnh, để ư
vào oai nghi cử động của quư vị, và ḿnh tác ư thức
dậy ( nghĩa là nói ngày mai ḿnh thức dậy lúc 4 giờ
). Ngày mai lúc 4giờ quư vị sẽ bật thức
dậy không cần chuông đồng hồ, không cần người
báo thức. Tất cả
chư Phật và các vị giác ngộ như các vị Thánh đệ
tử Phật, những vị hoàn toàn giải thoát, các Ngài đều
nằm nghỉ với chánh niệm, lúc đi nghỉ tác ư lúc
thức dậy. Và nếu quư vị nằm xuống
và tác ư lúc mấy giờ thức dậy, đem ư đó vào
trong ḷng lâu ngày quư vị sẽ thấy rằng thự nhiên
đến giờ đó quư vị sẽ thức dậy.
Một điểm khác chúng tôi muốn nói đến là
tiêu chuẩn con đường kinh hành trong các thiền viện
dài khoảng 10 thước (10m). Trong cung cách đi kinh hành của
thiền quán theo phương pháp Ngài Mahasi và theo các quốc
gia Phật giáo Nam truyền không phải là h́nh thức đi
một đoạn đường dài mà phải đi theo
một con đường đă được dọn sẵn
trước am thất nơi ḿnh hành thiền.Sau đây chúng
ta hăy đi vào phần thực tập chánh niệm trong lúc đi
kinh hành.
Trong bài hướng dẫn ngày hôm nay với yêu cầu
tất cả các thiền sinh bắt đầu với tư
thế đang đứng, đứng một cách thư thả,
thoải mái tự nhiên, có thể để buông xuôi hai tay,
hoặc giả có thể chắp tay để phía sau, và cũng
có thể giữ hai tay trước ngực, trong cách thế
nào ḿnh cảm thấy thoải mái. Hai bàn chân đứng
dang ra song song với chiều vai của ḿnh, nghĩa là không
đứng chụm lại hoạc không đứng dang ra
quá xa, tư thế đứng vừa phải thăng bằng.
Đứng trong tư thế vững vàng thoải
mái và trong lúc đứng như vậy nhắm mắt lại
và hướng sự chú ư của ḿnh từ trên đỉnh
đầu để có thể cảm nhận, ghi nhận
cảm giác ǵ hiện có trên vùng đầu của ḿnh.
Và trong một thế rất chậm răi, nhẹ nhàng hướng
chánh niệm chú ư trên đỉnh đầu dần dần
hướng sự chánh niệm đến trước mặt
xem những cảm giác như thế nào ở trán, ở mắt, ở mũi, ở g̣ má, ở
xương quai hàm của ḿnh. Từ phía trước mặt
ta hướng sự chánh niệm sang một phía hoặc bên
trái hoặc bên phải thử xem lỗ tai
ḿnh có cảm giác ǵ không? Một cách đơn giản là
trong lúc đứng như vậy hăy hướng sự chú ư
của những cảm giác đang xảy ra trên phần đầu
của ḿnh, sau đó từ từ quét chánh niệm qua phần
cổ, vai của ḿnh. Ghi nhận cảm giác ở hai tay và chậm chậm đưa sự chú ư đến
hai chân. Hướng chánh niệm
chú ư từ phần trên cánh tay, khuỷ tay, cườm tay rồi bàn tay rồi ngón tay từ từ
ghi nhận những cảm giác, bất cứ cảm giác ǵ
hiện khởi ḿnh ghi nhận ở đó. Có thể an trụ
chánh niệm tại đầu ngón tay
trong giây lát. Mang sự chú ư chánh niệm đến
những cảm giác ngay cổ và xuống lồng ngực để
thử xem những cảm giác nào đang tồn tại.
Từ từ hướng sự chánh niệm của ḿnh
xuống ngang chấn thuỷ, xuồng bụng, hướng
tâm vào khu vực đó và ghi nhận những ǵ đang xảy
ra chứ không thực sự t́m kiếm cái ǵ đang xảy
ra, một cách nhẹ nhàng thư thới b́nh thản, đặt
chánh niệm tại đó và ghi nhận những ǵ đang xảy
ra nếu có.
Mang sự chú ư trở về cổ và hướng
ra sau lưng để xem cảm giác ǵ đang sanh khởi.
Hăy ghi nhận những cảm giác như là căng thẳng
tê cứng hay rung động hoặc nóng hoặc lạnh, bất
cứ điều ǵ liên quan đến xúc giác, ghi nhận
những cảm giác đang xảy ra nơi ta hướng
sự chánh niệm về. Thong thả tỉnh táo chậm rải
quét chánh niệm đến phần trên của lưng, giữa
lưng và phần dưới của lưng và ghi nhận
những cảm giác đang sanh khởi .
An trú chánh niệm chung quanh khu vực xương chậu thử
xem cái ǵ đang sanh khởi, cái ǵ ḿnh đang cảm giác, tiếp
tục ghi nhận và chỉ ghi nhận thôi .
Chậm rải
hướng chánh niệm đến đôi chân, đưa
chánh niệm xuống phần đùi, đầu gối, ống
chân, mắt cá, để chánh niệm ghi nhận cảm giác
sanh khởi dưới chân. Hướng sự chú ư đến
đôi bàn chân, phần trên của bàn chân, vùng chung
quanh bàn chân thử xem có những cảm giác ǵ. Ghi nhận cảm giác bàn chân tiếp xúc với mặt
đất, với mặt phẳng.
Và bây giờ bắt đầu
bước đi bằng cách nhón gót chân một cách chậm
răi và khi nhón gót chân lên lưu ư những cảm giác của chân,
của bàn chân như thế nào trong lúc ḿnh nhón gót. Nhón gót chân
trái lên rồi từ từ giở chân lên đưa tới
và bước một bước ngắn và trong bước
ngắn đó lưu tâm tất cả những cảm giác của
chân trái. Ghi nhận sự di động của
chân, một cách châm răi đặt bàn chân xuống. Bây
giờ từ từ nhón gót chân phải lên, giở chân lên, đưa
tới và đặt chân xuống bằng tất cả sự
chú ư để ghi nhận.Trở lại trong tư thế đứng
và đứng một cách thư thả hướng chánh niệm
vào trọng tâm điểm.
Vừa rồi một cách thức hành kiểu
mẫu tiêu biểu cho sự quan tâm cho sự hướng
chánh niệm trong lúc ta đi kinh hành. Bây giớ quư vi có
thể mở mắt ra và đi t́m một khoảng trống
khả dĩ có thể đi kinh hành, không cần phải quá
dài, độ chừng 20 bước để bắt đầu
thực tập chánh niệm trong mỗi bước đi. Khi đă t́m được một nơi có thể
đi kinh hành tới lui, đầu tiên hăy bắt đầu
với tư thế đứng và quét chánh niệm của
ḿnh từ đỉnh đầu đến bàn chân để
ghi nhận những cảm giác toàn thân trước khi bắt
đầu sự di động.
Sự thực hành chánh niệm trong lúc đi kinh hành, chúng
ta có thể chia làm ba phần
1/
Giai đoạn đầu chúng ta đi tương đối
chậm răi, nhưng không chậm hơn b́nh thường bao
nhiêu, nhẹ nhàng khoan thai. Chỉ
là hơi chậm thôi chứ thực sự không chậm lắm.
Và trong lúc đi với nhịp độ b́nh
thường đó chúng ta ghi nhận thoang thoáng nghĩa là
chân trái bước chân mặt bước, hoặc ghi nhận
cảm giác đặt chân xuống. Chúng
ta chỉ ghi nhận một điểm nào thôi chứ không
thể ghi nhận trọn bước chân của ḿnh.
Điều
mà chúng ta thực hành tại đây là chú ư một cách đơn
thuần, chú ư trực tiếp giản dị những cảm giác xảy ra
trong lúc chúng ta đi. Tất nhiên đó là những
cảm giác trên thân. Chúng ta không những
ghi nhận những cảm giác trong thân mà chúng ta c̣n có thể
ghi nhận sự biến đổi cảm giác đó trong
lúc cơ thể đang di động, những chuyển động
nhỏ nhặt cũng tạo ra một số cảm giác dễ
dàng ghi nhận lúc chúng ta đang đi. Cũng
nên ghi nhận sự phóng tâm, ghi nhận những ư tưởng
thất niệm trong lúc chúng ta đi kinh hành nều điều
đó chi phối chúng ta. Nếu tâm ư đang nghỉ vẩn
vơ, hoặc giả đang chú ư tới
điều ǵ khác, cũng ghi nhận sự phóng tâm sau đó
trở về ngay với bước đi của ḿnh.
2/ Khi khả năng chánh niệm tương
đối hơi thành thục, chúng ta có thể chia bước
đi ra làm hai nhấc chân lên, đặt chân xuống.
Có những cảm giác liên quan đến cử
động nhấc chân lên và đặt chân xuống. Tất
cả cần được ghi nhận một cách tỉnh
táo, rơ ràng. Khi ta nhấc bàn chân lên, cái ǵ là cảm
giác của chân và bàn chân, đó là điều cần phải
ghi nhận. Khi đặt chân xuống cái
ǵ là cảm giác hiện khởi khi đặt chân xuống ta
ghi nhận cảm giác. Khi chúng ta bắt đầu đi
chậm lại ta ghi nhận bước chân gồm có 2 phần:
nhấc chân lên và đặt chân xuống, và trong mỗi phần
như vậy có những cảm giác hiện khởi đi
kèm với sự di động này. Tất cả
là điều chúng ta cần ghi nhận. Quư vị cảm
giác như thế nào khi nhón gót chân lên, khi nhấc bàn chân lên,
cảm giác như thế nào khi đặt bàn chân xuống, những
cảm giác đó trong mỗi bước chân đều cần
được ghi nhận.
3/ Khi chánh niệm đă thuần thục hơn đă
tinh tế hơn ta chia bước chân làm 3 phần:
_Nhấc chân lên.
_Đưa chân tới
_ Đặt chân xuống
Nhấc lên, đưa
tới, đặt xuống. Đó là ba
phần của một bước chân.
An
lập chánh niệm của ḿnh trong sự di động rất
chậm răi của bàn chân, đối với bất cứ
ǵ xảy ra trong từng cử động cần được
ghi nhận một cách rơ ràng.
Và làm sao cho chánh niệm song hành với những bước
chân. Nhịp điệu của sự di động
hoàn toàn chậm hơn cách chúng ta đi hằng ngày, và tại
đây bước chân phải được thực hiện
trọn vẹn với ba đông tác, trước khi nhấc
chân kia. Nói cách khác thông thường chúng
ta vừa đặt chân này xuống, chưa đặt xuông
hết th́ bàn chân kia đă nhấc lên, đó
là cách đi nhanh. Trong lúc thực tập tại đây bàn chân
được thực hành theo ba bước
nhấc lên, đưa tới, đạp xuống phải được
thực hiện trọn vẹn, đầy đủ, hoàn
tất trước khi chúng ta giở bàn chân kế tiếp,
đó là cách theo dơi bước chân của ḿnh. Nhấc chân lên,
đưa chân tới, đặt chân xuống, ngưng một
chút rồi bắt đầu nhón gót chân kia,
cũng nhấc lên, đưa tới, đạp xuống
như vậy. Với một người
trong giai đoạn thực tập chánh niệm, mức độ
chậm răi của bước đi có thể so sánh với
một người đang tập Thái cực quyền hay
người đang thực tập những lôi vũ cổ
điển. Nhấc chân
lên, đưa chân tới, đạp chân xuống hay nói một
cách ngắn là _giở, bước, đạp_ giở, bước,
đạp.Mỗi một phần của sự di động
đều được ghi nhận và ghi nhận một
cách rơ ràng. Kinh hành ở trong giai đoạn này nhịp điệu
chậm răi giở bước đạp mỗi một phần
của sự di động đều được ghi
nhận và ghi nhận một cách rơ ràng. Mức
độ nhanh châm quyết định vào khả năng
ghi nhận chánh niệm trọn vẹn trong lúc chúng ta đi.
Đối
với rất nhiều người bắt đấu bằng
nhịp điệu tương đối nhanh, từ nhịp
điệu b́nh thường, nhanh, đến chậm dần
dần song song với khả năng thuần thục của
định tâm của chánh niệm. Khi chánh niệm càng
tinh tấn nhịp điệu càng lúc càng chậm và theo dơi rơ ràng chi tiết từng bước
chân, có nghĩa là từ nhanh đến chậm. Có lúc qúy vị
cảm thấy thực sự hữu hiệu nếu ḿnh bắt
đầu đi một cách chậm răi để duy tŕ chánh
niệm, tuy nhiên nếu cảm thấy bị phóng tâm hơi
nhiều, cảm thấy bị gián đoạn chánh niệm
ta hăy bắt đầu đi nhanh một chút, làm thế nào
để có sự hoà nhịp giữa chánh niệm với
bước chân. Qúy vị có thể tự trắc
nghiệm chính ḿnh nhịp độ nhanh chậm của
trong lúc đi, cứ thử như vậy. Có những người thích hợp với nhịp
độ nào đó, hoặc nhanh hoặc chậm. Điều
ghi nhớ tại đây làm thế nào chánh niệm có thể
bắt kịp, đi song song, duy tŕ với từng chuyển
động của bước đi, cũng đừng quên
ghi nhận những phóng tâm những chi phối của những
ư tưởng bâng qươ sanh khởi trong lúc chúng ta đang
đi. Sau khi ghi nhận sự chi phối của
những tâm ư miên man đó, ngay lập tức trở lại
với việc ḿnh đang làm đó là chánh niệm trong từng
bước chân.
Cách duy tŕ phát triển
chánh niệm, tu tập chánh niệm trong từng bước
chân trong lúc đang đi, đó là h́nh thức kiểu
mẫu rất có lợi cho hành giả trong việc đem
chánh niệm vào đời sống hằng ngày. Cuộc
sống hằng ngày là một tập hợp của những
động tác và nếu chúng ta có khả năng theo dơi từng bước đi của ḿnh,
chúng ta cũng có thể đem khả năng đó ảnh
hưởng một cách lợi lạc trọn cả ngày c̣n
lại với những động tác khác. Ví
dụ như bước tới bước lui, co duỗi,
xoay người, đụng chạm, cầm lấy một
vật nào đó tất cả đều được diễn
ra với chánh niệm, tất cả đều được
ghi nhận bởi v́ chúng ta đă quen thuộc với bước
chân của ḿnh. Điểm cần nhấn mạnh tại
đây tất cả sự chú ư đều có sự trưởng
dưỡng của chánh niệm, một khi chúng ta đă bén
nhạy đă thuần thục chúng ta dễ dàng ghi nhận
những động tác, những thay đổi, những cử
chỉ của thân th́ càng lúc sự nhận thức của
tâm càng tinh tế hơn, có chiều sâu hơn, đối với
những ǵ đang xảy ra. Chính điều này cho chúng ta
thấy sự khác biệt đối với những người
có thiền tập hay không có thiền tập đối với
nhận thức chánh niệm rơ ràng về những ǵ xảy
ra trong thân của ḿnh.
Vừa rồi là
phần hướng dẫn sự tu tập chánh niệm
trong lúc đi kinh hành bởi ông Joseph Goldstien, một trong những
truyền nhân của Ngài Mahasi. Trong phần
hướng dẫn này thiền sinh học một kinh nghiệm
khác và chính kinh nghiệm này nói lên từ ngữ Vipassana.
Chữ passana có nghĩa là thấy, biết.
Ở đây chỉ cho sự đa dạng hay là bằng
nhiều khác nhau. Vipassana là là khả năng
ghi nhận thấy biết trong nhiều dạng thức khác
nhau. Chúng ta muốn nói đến tại
đây là khả năng tỉnh và động. Những lúc chúng ta ngồi yên là trạng thái tỉnh,
khi chúng ta đứng dậy đi là động, trong tỉnh
lẫn động hành giả tu tập chánh niệm đều
có cách thấy để ghi nhận. Chúng ta phải hiểu
được tướng nào của thân của tâm để
nắm bắt trong lúc tu tập thiển quán. Tất
nhiên theo phương pháp Ngài Mahasi chúng ta
cần lưu ư một số điểm như sau:
1/ Khi tu tập chánh niệm không
phải khởi đầu bằng bước đi mà khởi
đầu bằng tư thế đứng, hầu hết
các thiền sư đều hướng dẫn cho người
mới tập thiền bắt đầu đi kinh hành bằng
một phút hay hai phút đứng và đứng tại đây
các vị không hướng dẫn theo dơi hơi thở trong
lúc đứng mà thực tập bằng cách quán sát những
cảm thọ đang sanh khởi từ đỉnh đầu
đến bàn chân. Trong danh từ A tỳ
đàm có một từ ngữ khi chúng ta học về các pháp
là kềm tỉnh oai nghi. Một hành giả
đứng niệm hơi thở thường không vững
vàng như một hành giả quét chánh niệm của ḿnh.
Chữ quét ở đây chúng tôi tạm dịch từ chữ
Scan có nghĩa là rà, soi, quét qua giống như ra-đa quét
qua một vùng nào đó trong bầu trời để ghi nhận
tất cả những ǵ có trong bầu trời như phi cơ
chẳng hạn. Như Scan ta hướng chánh niệm từ
đỉnh đầu cho đến bàn chân để ghi nhận
những cảm giác từng phần một, một cách tinh
tế. Thông thường chúng ta biết
rất ít về cảm giác của ḿnh, biết rất ít về
những ǵ đang xảy ra.
Nếu chúng ta đứng trong tư thế thư giản,
khoan thai, nhẹ nhàng, hướng chánh niệm từ đỉnh
đầu xuống trước mặt, rồi mắt, má,
hàm, và hướng chánh niệm phía sau từ cổ lưng v.v.. cánh tay rồi xuống dần
đến bàn chân. Ở mỗi nơi chúng ta hướng sự
chú ư như vậy có thể ghi nhận một số những
cảm giác, có thể những cảm giác nhẹ nhàng căng
thẳng hay là nhức,là tê, khó chịu căng thẳng, rung
động v.v..Tất cả những cảm
giác đó đều nên được ghi nhận.
2/ Trong bài học
này qua phương pháp của Ngài Mahasi, thường tạo
ra một số tranh luận nên đi nhanh hay đi chậm.
Phần cuối bài bài hướng dẫn ông
Joseph Goldstien đă nhắc rằng điểm trọng yếu
là chánh niệm chứ không phải là nhịp điệu đi
nhanh hay chậm. Thế nhưng về điểm này
có nhiều người bắt đầu bằng phương
pháp đi nhanh dần dà do có chánh niệm được bén
nhạy hơn tinh tế hơn bước đi của họ
chậm lại để có thể ghi nhận từng chi
tiết một. Có những người lại bắt đầu
bằng phương pháp đi rất chậm cho phép họ
ghi nhận rơ ràng từng động tác. Nhanh hay chậm cũng
tuỳ theo tánh của mỗi người.
Lúc chúng tôi hành thiền với Ngài Mahasi, chúng tôi
nhận thấy rằng Ngài đi nhanh. Quư Ngài đi
nhanh trong lúc đi kinh hành, quư Ngài là những vị tốc
trí, tức là có trí tuệ nhanh nhẩu, nhưng trong lúc hướng
dẫn thiền tập đặc biệt là Ngài Mahasi hướng
dẫn thiền sinh nên đi chậm và trong bài ông Joseph
Goldstien đă đưa ra một ví dụ như lúc chúng ta
thực hành Thái cực quyền, người ta gọi là Taichi.
Những người học vũ có những vũ điệu
cổ điển, họ phải di động bước
chân một cách chậm răi, trong cái chậm răi đó cho phép họ
được sống với những động tác nhỏ
nhỏ, những động tác này tuy rằng nhỏ
nhặt, không quan trọng nhưng chính động tác nhỏ
nhặt đó được ghi nhận sẽ tạo ra sự
bén nhạy tinh tế của chánh niệm.
3/ Trong bài hướng dẫn này chúng ta thấy ở
mỗi cách thực tập chúng ta có đặt để một
chỗ gọi là căn bản để định tâm. Thí
dụ như trong lúc ḿnh ngồi căn bản là hơi thở,
khi có sự phóng tâm hay một âm thanh tới lui, chúng ta ghi nhận
những thứ đó và mau mắn đưa vào hơi thở.
Trong lúc đi chúng ta cũng như vậy, niệm
phóng tâm niệm chuyển biến hiện khởi chi phối
như âm thanh ồn ào xảy ra, mau mắn đưa chánh
niệm trở lại với bước chân của ḿnh.
Quan trọng ḿnh biết cái nào
chính, cái nào phụ. Ví dụ như chúng ta đang
sinh hoạt trong room tại đây, vào giờ phút này công việc
sinh hoạt chúng ta là tại đây và có việc ǵ xảy ra
chung quanh chúng ta nhanh chóng ghi nhận giải quyết. Nếu không phải việc qúa quan trọng, quá thúc
bách chúng ta sẽ đưa sự chú ư của ḿnh trở lại
với sinh hoạt tại đây. Hành giả cần có căn bản hậu cứ
để đưa tâm trở về. Phải biết đựoc lúc nào
chúng ta xuất phát lúc nào chúng ta trở về, không bao
giờ để chánh niệm trong thế gọi là điệu hổ ly sơn. Nghĩa là chúng ta bị chi phối bởi một điều
ǵ đó và chúng ta cứ niệm cái đó, niệm một lúc
chúng ta đánh mất đề mục của ḿnh. Đôi lúc có nhiều
người cảm thấy không thoải mái khi đi kinh hành
ở nhịp độ quá chậm. Về điểm
này như khi năy chúng tôi có tóm tắt tuỳ theo
cá tính có những người bắt đầu thật chậm
có những người bắt đầu nhanh nhưng một
khi chánh niệm thuần thục th́ nhanh hay chậm tuỳ thuộc
khả năng song hành giữa bước chân và sự chú ư
của ḿnh.
4/ Một điều chúng ta thấy được
ở đây làm thế nào chúng ta biết được tướng
nào khởi lên, những trạng thái nào cần ghi nhận.
Trong lúc đi cũng như lúc ngồi có rất nhiều thứ
để ghi nhận và nếu chúng ta buông cái này chụp cái
kia chúng ta sẽ bị phóng tâm hơn là
chánh niệm. Do vậy chúng ta thấy rằng cảm giác như
tê nhức, uể oải của thân cần được
chú ư nhưng rồi khi ngồi căn bản là hơi thở,
khi đi căn bản là bước chân. Sau những ghi nhận
đối với những chi phối, ta trở về ngay
lập tức với bước chân của ḿnh (trong trường
hợp đi kinh hành ).
Chúng tôi cũng xin lưu ư cách đi chúng ta gọi là
kinh hành ở đây có khác với cách đi một số phật
tử Việt Nam đă quen trong truyền thống Tịnh độ
tông, hay chư Tăng Bắc tông đi kinh hành niệm Phật
thường đi ṿng tṛn
chung quanh Phật đài trong chánh điện ta thường
gọi là đi nhiễu Phật. Đi kinh hành ở đây
không phải là đi nhiễu Phật, v́ cách đi kinh hành đó bắt
buộc chúng ta phải chú ư nhiều về vị thế về
con đường, về những vật bài trí chung quanh
nhiều hơn khả năng ghi nhân bước chân của
ḿnh. Chúng ta cũng không đi kinh hành như trong cách đi tản
bộ của HT Nhất Hạnh gọi là thiền hành, HT hướng
dẫn một đoàn gồm trẻ em người lớn
đi ngang qua một khu vườn hay công viên, vừa đi
chậm răi. Đối với thiền quán, cách đi đó
cũng cho chúng ta hướng sự chú ư hướng chánh
niệm của ḿnh đối với bối cảnh chung
quanh như cây, rừng, đướng ṃn v.v... Ở đây hành giả một cách
gián tiếp không nói rơ nhưng chúng ta phải làm quen với
con đường kinh hành của ḿnh, nghĩa là phải tạo
nên được thói quen nhất định đi cho đến
mức độ nào th́ quay lại mà không cần phải
quan sát nhiều lần, và nên nhớ một điểm trong
bài này cho chúng ta thấy rằng chỉ duy bước chân
thôi, chia ra từng giai đoạn, chúng ta chỉ ghi nhân một
điểm nào đó như đặt chân xuống, chân phải bước_ chân trái bước_
chân đặt xuống. Nhưng trong 1 giai đoạn
nào khác chánh niệm tinh tế hơn chúng ta có thể chia bước
chân làm hai phần_ nhấc chân lên_ đặt chân xuống.
Ở mức độ tinh tế hơn chúng ta có thể
chia làm 3 phần _nhấc chân lên _ đưa chân tới _ Đặt
chân xuống _ hay Ngài Kim Triệu thường nói _ Giở _
Bước _ Đạp. Một vài cảm giác ban đầu
cũng khơi mào cho chánh niệm chú ư vào sức nặng của
ḿnh đang được đặt tại đâu khi bước,
đặt bên chân trái hay đặt bên chân phải. Khi đi chậm bước chân nào ta chánh niệm
chú ư trọn bước chân đó, hoàn tất bước
chân đó trước khi chân sau giở lên. Chúng ta thường đi vội vă chân này vừa đặt
xuống th́ đă nhón chân sau lên, chúng ta chưa an lập được
bước chân của ḿnh nghĩa là đầu ngón chân vùa đặt
xuống chưa ổn định đă nhấc chân sau lên.
Hoàn tất mỗi bước chân trước khi chúng ta bắt
đầu bước tiếp theo.
Đó là một vài điểm chúng tôi xin
tóm tắt lai. Chúng tôi xin dừng tại đây.