Thực
tập thiền định theo
phương pháp của Ngài Mahasi Sayadaw
Niệm
tâm từ
TT Giác Đẳng
chuyển ngữ Việt - Ngày 16 tháng 1 năm 2006
Chánh Hạnh chuyển
biên thành văn bản
Thiền tập về pháp niệm tâm từ. Điểm đầu
tiên về phương pháp niệm tâm từ hay những phương
pháp thiền tập khác, được t́m thấy trong sự
hướng dẫn của Đức Phật là thiền
sinh tự đặt ḿnh trong một tư thế thoải
mái nhẹ nhàng như trong kinh điển diễn tả bởi
Đức Phật t́m một nơi chốn thích hợp, trong
một khung cảnh thích hợp để tâm tư không bị
chi phối bởi điều ǵ. Ở trong trạng thái tư
thế nhẹ nhàng đó, người hành thiền không t́m cách bắt buột chính ḿnh
như thế này hay như thế kia, hoặc giả có sự
thúc bách bản thân để đạt đến trạng
thái này hay trạng thái khác, cũng có thể ghi nhận rằng
một thiền sinh không cố gắng bắt buộc ḿnh
phải đạt đến trạng thái này hay trạng
thái kia mà ở trong tư thế
hoàn toàn thư giăn, nhẹ nhàng để làm những ǵ cần
thiết trong phương pháp thực hành, chỉ vậy thôi. Thực tập
thiền giống như chúng ta đang ở một cánh đồng
rộng lớn gieo những hạt giống và những hạt
giống ở đây là sự chú ư. Chúng ta đang hướng
sự chú ư vào đối tượng thiền tập, chỉ
đơn giản như vậy thôi.
Chúng ta bắt đầu thiền tập với pháp
niệm tâm từ bằng một thái độ thân thiện,
từ hoà, gần gũi với bản thân
của ḿnh, với chính ḿnh. Hăy bắt đầu
bằng sự hướng tâm nghĩ đến một vài
đức tánh đáng nhớ của bản thân ḿnh. Có
thể một lần nào đó, chúng ta tỏ ra rất rộng
răi, một lần nào đó chúng ta độ lượng,
hoặc một lần nào đó chúng ta đă can đảm
nói lên sự thật trong lúc thật dễ dàng nói dối.
Những trường hợp đáng qúy như vậy nên được
ghi nhớ và bây giờ chúng ta liên tưởng đến những
điều đó như là một ghi nhận về cái đẹp,
về những đức tính đáng quư của chính bản
thân ḿnh, dù chỉ ở trong một khuôn khổ giai đoạn
giới hạn nào đó, nhưng chúng ta hăy bắt đầu
niệm tâm từ bằng cách ghi nhớ những đức
tinh đó. Người niệm tâm từ cũng
có thể tưởng nghĩ đến một điểm
khác, đó là sự mong cầu an lạc cho ḿnh, sự mong cầu
an lạc cho tất cả chúng sanh. Đó là điều
hoàn toàn hợp lư, hoàn toàn có thể chấp nhận khi ḿnh
nghĩ đến an lạc và nghĩ đến một sự
tha thiết mong cho bản thân ḿnh được an lac và mong cho mọi người, mong cho tất
cả chúng sanh được an lạc. Người tu tập
tâm từ cũng có thể hướng tâm đến những
ǵ ḿnh thật sự mong mỏi cho bản thân, không phải
là những ước nguyện mang tính chất ngắn hạn
những ước nguyện mang tính chất b́nh dị, mà
là những nguyện vọng chân chính những hoài băo b́nh
sinh, những ǵ ngự trị cả một vùng rộng lớn
trong tận đáy sâu của tiềm thức. Hăy nghĩ lại, hăy nhớ lại cái ǵ ḿnh thực
sự mong mỏi và bắt đầu từ đó.
Có những câu nói lên ước nguyện tinh thần của
ḿnh đối với tự thân, nguyện cho con tránh được
những hiểm nguy bất trắc. Những hiểm nguy ở
đây gồm cả những tai ương
chờ đợi từ bên ngoài, những tai ương
mang tính cách ngoại giới. Những hiểm
nguy ở đây có thể là những cạm bẫy trong tâm
tư của ḿnh, những thứ làm chúng ta có thể suy sụp
khả năng tu tập, làm chúng ta chuyển hướng,
những thứ làm chúng ta thối thất. Những hiểm nguy bao gồm cả hai phương
diên nội tại và ngoại tại. Nguyện cho con được
an lạc hay nguyện cho con được hạnh phúc,
nguyện cho con được khoẻ mạnh, nguyện
cho con sống với một tâm tư từ hoà, tất cả
những điều đó là những ước vọng chân
thành mà một người có thể mong mỏi cho chính ḿnh.
Chúng ta nói rằng nguyện cho con sống trong sự
sung sướng hay sống trong sự thanh thản, điều
đó có nghĩa sự thanh thản t́m thấy được
trong công ăn việc làm, trong những bước chân đi
trong cuộc đời và sự thanh thản trong nỗi đau.
Chúng ta nguyện rằng nguyện cho con tránh được
những hiểm nguy, nguyện cho con được an lạc
hạnh phúc, nguyện cho con được khoẻ mạnh,
nguyện cho con sống trong thanh thản. Chúng ta cũng có
thể nguyện bất cứ ǵ mà ở đó chúng ta bắt
nhịp được với nguyện ước vọng
chân thành đối với bản thân ḿnh nghĩa là bằng
sự cảm nhận, bằng sự mong mỏi đó chúng
ta thật sự rất từ hoà, rất thân thiện với
bản thân của chính ḿnh, cho nên sự mong mỏi đó,
mong mỏi những tặng vật thật sự có giá trị
có ư nghĩa và có lợi lạc với tự thân. Nếu hướng
tâm gặp những nguyện vọng đó ở trong một
tư thế rất tự nhiên không thúc bách ḿnh phải như
thế này hoặc giả ḿnh phải như thế kia mà chỉ
đặt để sự chú ư của ḿnh vào điểm đó
trong một tư thái hoàn toàn nhẹ nhàng, hoàn toàn thoải mái,
trong sự mong mỏi của chính tự thân. Nguyện cho con
tránh được những hiểm nguy bất trắc, nguyện
cho con được an lạc, nguyện cho con được
an lành, nguyện cho con được
thanh thản. Thiền sinh thỉnh thoảng lập lại
những nguyện vọng những ước muốn như
vậy đối với chính bản thân của ḿnh
Sự phát triển tâm từ
có thể được hướng cao hơn với sự
liên tưởng đến những bậc ân
nhân của ḿnh. Những bậc hữu ân hay ân nhân là những
người đă giúp đơ cho ḿnh, đă rộng răi với
ḿnh, những bậc đă mang lại lợi ích, mang lại
hạnh phúc cho
ḿnh. Cũng có thể là những vị đă
tạo cho ḿnh một sụ tác đông lợi ích, những
vị đó đă sách tấn đă khuyến khích một cách
gián tiếp hoặc trực tiếp, đều là những
bậc hữu ân. Cái ǵ ḿnh mong mỏi cho ḿnh, cái ǵ ḿnh
ước vọng cho bản thân, hăy hướng tất cả
những ước vọng tốt đẹp đó đến
các bậc hữu ân. Đối với những bậc hữu
ân, chúng ta tưởng tượng chân dung của vị đó,
h́nh ảnh của những vị đó. Chúng
ta cũng có thể niệm thầm, không ra lời tên của
vị đó, hoặc giả là tưởng tượng vị
đó đang ngồi trước mặt, đang ngồi
chung quanh chúng ta. Chúng ta thầm mong những bậc hữu
ân đó được sự lợi lạc,
được sự hạnh phúc như ḿnh mong mỏi cho
chính ḿnh. Hăy nghĩ tưởng những việc làm mà những
bậc hữu ân đó đă dành cho ḿnh, hoặc nghĩ tưởng
đức tánh cao quư của những vị đó và rồi
dùng lời nguyện của tâm từ để hướng
sự chú ư đối với các bậc hữu ân, mong cho những
vị đó tránh được những hiểm nguy, được
hạnh phúc an lạc, mong cho những vị đó khoẻ
mạnh vô bệnh, mong cho những vị đó đuợc
thanh thản.Mong mỏi cho ḿnh như thế nào th́ cũng
mong mỏi cho các bậc hữu ân như thế ấy. Hăy
nguyện cầu cho các bậc hữu ân được an lạc,
được hạnh phúc, tránh khỏi những hiểm
nguy, được khoẻ mạnh, được thanh thản.
Nếu nhất thời không có bất kỳ h́nh ảnh của
bất kỳ bậc hữu ân nào, chúng ta có thể liên tưởng
được và liên tưởng với một hướng
tâm mạnh mẽ th́ hăy hướng nguyện vọng đó
trở về với bản thân của ḿnh để an trú
thật sự trong ḷng ḿnh
Hăy hướng tâm từ của ḿnh về những
người bạn, những thân hữu. Nên nhớ rằng
chữ metta hay từ tâm có nghĩa là thân thiện. Hăy giống
như một thứ t́nh bạn, hăy đem những nguyện
vọng, những ước muốn cho bản thân ḿnh, hướng
sự ước muốn đó nghĩ về những người
bạn, đem h́nh ảnh những người bạn, đưa
những người bạn vào trong tầm chú ư của tâm
từ, mong cho người bạn tránh được hững
hiểm nguy, được an lạc, được khoẻ
mạnh, được thanh thản như mong mỏi đối
với chính bản thân. Hăy thử xem chúng ta có
thể đem ḷng từ mẫn đối với những
người đó như đối với chính bản thân
của ḿnh không. Hăy nhớ một điều
rằng những người đó cũng mong muốn được
an lạc, được hạnh phúc như bản thân của
ḿnh vậy.
Sự hướng tâm từ đến những người
xa lạ, những người ḿnh không thương cũng
không ghét, những người chúng ta không có điều ǵ trong
đời sống hằng ngày không có ǵ đặc biệt
ưa thích hay là ghét bỏ. Hướng tâm từ
về những người đó nghĩ tưởng tâm từ
đến những người đó như là đối
với bản thân của ḿnh, hay là đối với những
bạn hữu quen biết của ḿnh. Tất
nhiên đối với những người không quen bíêt, không
thân thiết trong đời sống, chúng ta hoàn toàn không biết
những người đó là ai, có bối cảnh sống
như thế nào. Nhưng chắc chắn
có một điều là những nguời đó, những chúng
sanh đó, cũng giống như tất cả những chúng
sanh khác trong cuộc đời, và cũng như chính bản
thân của chúng ta luôn mong cầu được an lạc,
mong cầu được hoan hỷ, mong cầu được
thanh thản. Chúng ta hăy đem những nguyện vọng chính đáng
nhất đối với bản thân ḿnh, đối với
thân hữu của ḿnh hướng đến những người
không quen bíêt, những người xa kẻ lạ, cũng giống
như đối với bản thân ḿnh.
Phần hướng tâm từ tiếp theo
là hướng tâm đến một người hay những
người cực kỳ khó khăn trong đời sống
của chúng ta. Những người vốn tạo ra cho chúng
ta nhiều tai ương hoạn nạn,
của bao ngày nhiều đau khổ trong quá khứ. Khi vào đầu
buổi thiền tập của tâm từ chúng ta không thể
hướng tâm từ về những người đó, nhưng
sau khi đă có những nguyện vọng rất chân thành về
hạnh phúc an lạc thanh thản cho bản thân, cho những
người thân của ḿnh, cho những bậc hữu ân, và
cho những người xa lạ. Bây giờ là
lúc ta nghĩ rằng những người vốn có những
đó kỵ thù nghịch, những người oan trái gây
nhiều phiền năo cho chúng ta. Trong một tư thế
sẵn sàng mong mỏi cho những người đó tránh được
những hiểm nguy bất trắc, được hạnh
phúc an lạc, được khoẻ mạnh, được
thanh thản giống như mong mỏi cho bản thân, cho những
người thân, cho những bậc hữu ân, cho những
người xa lạ.
Chúng
ta niệm ḷng từ đối với những người
thù nghịch hăy nhớ một điều rằng không phải
chúng ta đưa ra một lời nói trấn an, một lời
nói tự an ủi hay cố gắng gượng gạo để
nói rằng: “ Chuyện mà người đó
gây ra cho ḿnh , thật ra nó không quan trọng “ Hay chúng ta nói rằng:
“ Những chuyện đó đối với ḿnh không sao hết
“ Chúng ta không cần phải như vậy. Nhiều
khi đối với những người thù nghịch chúng
ta hăy nh́n nhận bằng tất cả sự hiểu biết
rằng, những người đó cũng giống như
chúng ta, cũng mong mỏi được an lạc, cũng
mong mỏi tránh được những hiểm nguy, cũng
mong mỏi không bệnh hoạn, cũng mong mỏi được
sống thanh thản. Hăy thừa nhận
điều đó, hăy hiểu được điều đó,
và thấy được tính nhất thể, tính tương
quan giữa người đó và chúng ta trong thế gian này và
sự nh́n nhận đó là sự nh́n nhận thật sự,
chứ không phải là thái độ gượng gạo.
Chúng ta không cần phải giải thích hay phải cố gắng
bóp méo đi cảm giác trong ḷng là ḿnh thích hay không thích người
đó và đối với kẻ thù hăy thành thật nh́n nhận
với sự hiểu biết
rằng những người đó cũng mong mỏi an lạc
như chúng ta và tất cả các chúng sanh vậy . Hăy học cách để niệm tâm từ đối
với những người thù nghịch, chúng ta liên tưởng
ḿnh cùng với những người đó đang cùng sống
trong một hoàn cảnh, đang cùng đối diện với
hiểm nguy, đang cùng đồng hành trên một con đường.
Thay v́ niệm ḷng từ chỉ riêng cho ḿnh hay
những người đó, hăy niệm hăy nguyện rằng
niệm cho chúng ta tránh được những hiểm nguy bất
trắc, nguyện cho chúng ta được an lạc hoan hỷ,
nguyện cho chúng ta được vô bệnh khoẻ mạnh
nguyện cho chúng ta được thanh thản. Đặt ḿnh vào
trong vị thế của người đó và mong mỏi
người đó và chính bản thân của chúng ta có những
thứ tốt đẹp. Từ quan niệm nhân ngă vị
kỷ tôi và anh, người và ḿnh, bây giờ chúng ta đổi
sang một ước nguyện gom chung cả hai lại, chúng
ta hay là cả hai sẽ được những ǵ tốt đẹp.
Hăy thử làm như vậy trong thực hành niệm
tâm từ của ḿnh. Nếu trong lúc đang hướng
tâm từ đến những người thù nghịch, và tự
thân người thiền sinh cảm thấy khó chịu, bực
bội khổ sở đừng cố gắng né tránh hoặc
giạt sang một bên, hăy đem tâm từ hướng trở
lại với bản thân của ḿnh, nguyện cho con được
an lạc, nguyện cho con được thanh thản nhẹ
nhàng, và sau khi hướng tâm từ về bản thân của
ḿnh, thấy rằng tâm tư đă lắng đọng,
chúng ta có thể trở lại hướng tâm từ đến
với những kẻ thù của ḿnh.
Sau khi đă đem tâm từ nghĩ tưởng
đến những người thù nghịch. Chúng ta hướng tâm từ đến tất cả
chúng sanh trong cuộc đời này. Trong truyền thống
của kinh điển, sự hướng tâm thể nhập
khung cảnh của vô lượng, của không có giới hạn,
không có phân biệt, một trạng thái hoàn toàn không biên giới,
nguyên cho tất cả chúng sanh tránh được những
hiểm nguy bất trắc, nguyện cho tất cả chúng
sanh được hoan hỷ an lac, nguyện cho tất cả
chúng sanh được vô bệnh khoẻ mạnh, nguyện
cho tất cả chúng sanh được thanh thản. Mở rộng tâm tư của ḿnh, không phân biệt,
không giới hạn, không loại trừ bất cứ một
chúng sanh nào, mong cho tất cả chúng sanh được an
lạc.
Chúng ta cũng
có thể hướng tâm từ đến những thành phần
mang tính tương phản khác biệt, đối ngược
lẫn nhau. Lấy ví dụ chúng ta nguyên
cho tất cả những người nam được an
lạc và nguyện cho tất cả những người nữ
được an lạc. Quan niệm đối
với người nam, đối với người nữ
đôi khi cũng là một lằn ranh, là một bức tường
trong sự nghĩ tưởng của chúng ta đối với
sinh hoạt hằng ngày. Bây giờ dưới ánh mắt
của tâm từ, chúng ta xoá bỏ rào ngăn ngại đó, nguyện
cho tất cả người nam được an lạc,
nguyện cho tất cả người nữ được
an lạc.
Hành giả
cũng có thể luyện tâm từ đối với những
bậc thánh, đối với những bậc trong sạch,
thanh tịnh giác ngộ và đối với những phàm nhân,
những người c̣n nhiều phiền năo trong đời.
Biên giới ngăn cách giữa phàm và thánh trong
tầm nh́n của chúng ta cũng là điều cần được
nói lên tại đây trong tầm nh́n của tâm từ. Ở
mức độ nào đó chúng ta có thể có khả năng
hướng tâm từ với tất cả đối tượng
chúng sanh hiện khởi trong tâm tư. Xin
nhớ lại phương pháp tập luyện tâm từ tại
đây là làm sao chúng ta có thể đem tâm tư từ hoà để
nghĩ về bản thân của ḿnh, nghĩ đến tất
cả chúng sanh mà không nghĩ phải quan hệ như thế
này hay quan hệ như thế kia. Tâm từ ái không phân biệt, không loại trừ,
không tách biệt, thấy được tất cả chúng
sanh đều giống nhau, đều mong mỏi được
an lạc như chính bản thân của ḿnh.
Hăy từ từ mở mắt ra bằng
tâm tư nhẹ nhàng, cảm được những cảm
giác trong thân của ḿnh, chánh niệm cái tê nhức, cái mỏi
trong thân và bằng một tâm tư được gội
nhuần trong tâm từ. Thử xem chúng ta
có thể đem những lời mong mỏi từ ái đó vào
trong sinh hoạt của ḿnh. Thử xem chúng
ta có ứng dụng được những điều đó
đối với những người chung quanh và đối
với ḿnh.
Buổi tập
hành thiền với pháp niệm tâm từ vừa được
hoàn măn. Trong phần hướng dẫn có một vài điểm
cần được lưu ư tại đây:
_Trước nhất một người tu tập tâm
từ mong mỏi điều tốt đẹp cho bản
thân, đó là điều hoàn toàn hợp t́nh hợp lư và điều
đó có một ảnh hưởng rất tốt nếu
chúng ta biết rơ ràng. Lấy ví dụ khi ḿnh mói rằng mong
cho con được an lạc, mong cho con được
thanh thản, điều đó giống như khi chúng ta
mong mỏi đi t́m một ly nước trong lúc khát. Điều đó không có ǵ là đúng sai phải quấy,
đó là một chuyện rất tự nhiên. Chúng ta mong mỏi tránh được những hiểm
nguy bất trắc, điều đó tương tự như
chuyện trời lạnh ḿnh mở ḷ sưởi lên làm ấm
bản thân. Không có điều ǵ phải
chỉ trích, không có điều ǵ gọi là không nên.
_ Điểm thứ hai trong pháp dưỡng
tâm từ là nên phânbiệt rơ cái ǵ gọi là ích kỷ trong đời
sống của ḿnh. Mong cho ḿnh được
an lạc, mong cho ḿnh được hạnh phúc không phải
là điều ích kỷ. Ích kỷ là khi nào
ḿnh mong cho ḿnh được mà không thể mong chongười
khác được. Chúng ta nấu một bữa ăn cho chính bản thân của ḿnh, làm một
ly trà cho ḿnh uống, cái đó không gọi là ích kỷ. Ích kỷ khi nào ḿnh cho ḿnh một ly nước khi
ḿnh đang khát nhưng lai không muốn cho người khác cùng
uống được ly nước đó. Chúng ta thường nghĩ sai về vấn đề
này, nghĩ rằng mong muốn cho bản thân của ḿnh được
an lạc, chăm sóc bản thân của ḿnh, đó là thái độ
ích kỷ là điều chúng ta cần bỏ đi. Tinh thần của tâm từ là hiểu được
ḿnh mong cho ḿnh được an lạc th́ người khác
cũng như tất cả chúng sanh cũng mong mỏi như
vậy và chúng ta nh́n nhận điều đó nh́n nhận bằng
tất cả sự cảm thông của ḿnh.
_ Một điều nữa khi chúng ta tu dưỡng về
tâm từ, chúng ta nhận rằng sự phát triển của
tâm từ phải đi theo một tŕnh tự
cần thiết. Không thể nào ḿnh đang giận
một người nào đó mà ḿnh phải ngồi xuống
ngay và nói rằng mong cho người đó được
an lạc, rất khó. Hăy cho chúng ta một không gian rộng
lớn, để khi chúng ta ngồi xuống bằng tất
cả tâm tư thanh thản, bằng tất cả tâm tư
lắng đọng mong cho bản thân được an lạc,
mong cho những người thân được an lạc,
mong cho những người xa lạ được an lạc
và sau khi tâm từ đă được ổn cố, sau khi
tâm từ đă được vững chải th́ bấy
giờ chúng ta mong cho những người thù nghịch được
an lạc. Đó là một nghệ thuật một
phương pháp thích hợp nhất để luyện tâm
của ḿnh. Nhiều khi ḿnh đ̣i hỏi
ḿnh phải có tâm từ nhưng không biết cách để
dẫn dụ tâm từ. Làm việc có phương pháp
làm việc sẽ tốt, tu tập có phương pháp có nhiều
thành đạt và do vậy phương pháp ở đây rất
quan trọng.
_ Một điểm khác trong cách tu tập của Ngài
Mahasi đó là thay v́ lời nguyện tâm từ có tính chất
chung chung. Ngài Mahasi dạy
chúng ta đặt tưởng nghĩ đến một đối
tượng cụ thể chứ không phải là cách nói hời
hợt ở bên ngoài. Ví dụ chúng ta nói nguyện cho các
bậc hữu ân được an lạc,
đối với một số người đó chỉ
là câu thoại đầu. Nhưng với phương
pháp Ngài Mahasi khuyên rằng nên đặc biệt tưởng
nghĩ đến một cá nhân. Như chúng tôi có một
vị ân nhân trong quá khứ đă từng
giúp đỡ, đă từng làm một việc mà chúng tôi cảm
kích suốt cuộc đời không quên. Trong lúc
thực tập tâm từ chúng tôi đem h́nh ảnh vị đó
tưởng nghĩ đến vị đó mong rằng vị
đó được an lạc, vị đó tránh được
những hiểm nguy bất trắc. Chúng
tôi mong như vậy. Nó mang tính cách đơn cử, đơn
cử có nghĩa là chúng ta có một h́nh ảnh cụ thể
chứ không phải là câu nói mơ hồ. Nguyện cho các bậc
hữu ân được an lạc. Đối với kẻ thù cũng vậy. không phải chúng ta sống trong thời đại
chém giết hay trong cuộc sống phải có những chuyện
tranh đấu vật lộn với người nào đó
chúng ta mới có thù hận. Khi ra đường
có người làm cho chúng ta bực ḿnh, những người
trong gia đ́nh tật đố ganh tỵ, trong công sở
có những người đương đầu với ḿnh.
Một cách đơn cử chọn một người nào
đó và niệm tâm từ đến những người đó.
Có nhiều vị thiền sư tránh điều này, khi nói
rằng nguyện cho con được an lạc, nguyện
cho người thân được an lạc, nguyện cho
những người xa lạ được an lạc,
nguyện cho kẻ thù được an lạc. Thông thường lời nguyện đó có tính cách
đại thể đại loại, không đơn cử
một h́nh ảnh nào hết. Trong cách thiền của
Ngài Mahasi, Ngài khuyên nên đơn cử ra một h́nh ảnh
thực có. Khi đối diện với h́nh ảnh
này chúng ta đến gần với cái thật của đời
sống nhiều hơn.
_Cũng từ bài học niệm tâm từ chúng ta thấy
có một điểm khác biệt tại đây là trong phương
pháp của Ngài Mahasi, Ngài khuyên thỉnh thoảng chúng ta nên có
những lời nguyện, thấy bản thân và những đối
tượng mà ḿnh hướng đến là một, chúng ta
gọi là nhất thể thay v́ nguyện rằng nguyện
cho con được an lạc, nguyện cho kẻ thù được
an lạc. Chúng ta tưởng tượng ḿnh
đồng hội đồng thuyền, là người đồng
hành với những người đó trong một hoàn cảnh,
trong một hành tŕnh và hăy nguyện rằng nguyện cho tất
cả chúng ta được an lạc. Trong
chữ chúng ta đó gồm cả tôi và quư vị, gồm bản
thân và những người ḿnh đang nghĩ đến.
Cách niệm này ḿnh hướng đến nhất
thể. Ḿnh cảm thấy rằng nếu như cả
hai cùng sống trên một con thuyền lênh đênh giữa đại
dương mênh mông hay là cả hai bất chợt rơi vào
hoàn cảnh là phải băng ngang một khu rừng đầy
hiểm nguy bất trắc. Lúc bấy giờ
an nguy của người bên cạnh ḿnh cũng là sự an
nguy của chính ḿnh, bấy giờ trong sự đồng hành
đồng cảm đó ḿnh có ước vọng như thế
nào th́ người đó có ước vọng như vậy.
Nguyện cho chúng ta được an lạc, nguyện cho chúng ta tránh được
những hiểm nguy bất trắc.
_Trong pháp niệm tâm từ cũng dạy
chúng ta rằng chúng ta phải thừa nhận những sự
khác biệt, chúng ta phải thừa nhận những ǵ vốn
dĩ không tránh khỏi hơn là cố gắng tự biện
hộ, hơn là đưa ra một lời giải thích nào
đó. Thí dụ có một người làm
phiền ḿnh, họ làm khổ ḿnh. Bây giờ ngồi
thiền ḿnh nói rằng: “ Bây giờ ḿnh
tu rồi , ḿnh không thấy ǵ hết, ḿnh không buồn đâu”
Không nên nói như vậy, hay nói rằng: “ Bây giờ ḿnh tu rồi,
ai làm sao cũng được “ Cách nói đó chỉ là cách
nói đẩy đưa, nói lời không thành thật. Chúng ta hăy nói một lời chân thật những
nguời đó đă tạo cho ḿnh một cảm giác chua xót,
có thể là đau đớn có thể là phiền muộn
và không cần phải có một lời nào để nói về
điều đó. Chỉ nên ghi nhận
một điều người đó là một chúng sanh cũng
mong mỏi được an lạc và bản thân của ḿnh
là một chúng sanh cũng mong mỏi được an lạc.
Hăy t́m thấy một sự tương quan là
trong đời này nếu chúng sanh được an lạc
ḿnh sẽ an lạc và ḿnh an lạc chúng sanh cũng sẽ
an lạc. Do vậy nguyện cho ḿnh và người đồng
an lạc. Đây là một điểm rất
khó. Trong một gia đ́nh ít khi chúng ta có thể tưởng
tượng được những tương quan, ḿnh luôn
t́m thấy sự khác biệt, anh em sống chung với nhau
bản thân ḿnh nghĩ rằng miễn làm sao ḿnh giàu có, miễn
làm sao ḿnh hạnh phúc, an lạc c̣n anh chị em , sao cũng
được. Không phải như vậy, những
người đó có liên quan đến ḿnh, người đó
có trái gió trở trời có bệnh hoạn hiểm nguy cũng
ảnh hưởng tới ḿnh. Có một
sự liên đới vô h́nh, một sự liên đới chúng
ta dẫy nẫy từ chối rằng không có, tôi với
người d0ó khác biệt. Sự liên đới
đó đối với người tu niệm tâm từ là
điều ḿnh phải nh́n nhận.
_Trong pháp tu tập ḷng từ cũng dạy
chúng ta một việc.Tâm tư chúng ta vốn có sự phân
biệt, loại trừ, có những hàng rào để cô lập
chính ḿnh. Một khi ḿnh mở ḷng ra, sống
với tâm từ sanh khởi, chúng ta cho phép ḿnh bơi lội
trong một không gian rộng lớn, hoà ḿnh trong biển mênh
mông của từ ái. Ḿnh không thấy rằng chuyển
sang bên đây ḿnh bị vướng, chuyển
sang bên kia ḿnh bị mắc. Sự vướng
mắc như vậy không t́m thấy trong tâm tư của
người niệm tâm từ. Nhưng
phải được thực tập, phải có giai đoạn,
và mất thời gian. Niệm về tâm từ là một
kinh nghiệm lớn, ít nhất cho phép chúng ta tự ḿnh đối
diên với những cảm giác của ḿnh đối với
bản thân, những người chung quanh và tất cả
chúng sanh. Điều này rất quan trong.
Có những người thành kính quỳ trước những
pho tượng trong các miếu đền, nhưng một
người hiểu đạo thấy rằng, điều
quan trọng đôi khi không phải là thần linh có hiển
linh hay không mà điều quan trọng là ḿnh thật sự có
tâm từ đối với chính ḿnh hay không. Tâm từ ở
đây thật sự ḿnh có từ hoà, có mong mỏi chánh đáng
đối với bản thân của ḿnh hay không
? Đối với cuộc đời và
đối với bản thân ḿnh phải có tâm từ.
Đừng nghĩ rằng ḿnh đem tâm từ
đến cho người khác. Không phải.
Một con người chỉ có thể có tâm từ đối
với người khác khi người đó đối với
bản thân của ḿnh cũng với một tâm tư từ
hoà và không có tội lỗi ǵ, không có điều ǵ đáng
trách khi ḿnh mong những ǵ tốt đẹp nhất cho bản
thân ḿnh. Nếu quư vị có điều ǵ mong mỏi cho ḿnh
được tốt đẹp nhất, chúng ta cứ
mong mỏi.Ví dụ quư vị mong mỏi đoàn tụ với
người thân, vượt qua được những tài
chánh đời sống hằng ngày, mong rằng có những
thành công trogn cuộc sống. Hăy biết những
điều đó, hăy chân thành mong mỏi điều đó
cho bản thân. Đôi khi chúng ta muốn
nhưng dẫy nẫy nói rằng ḿnh không muốn hoặc
giả nghỉ rằng cái muốn đó là vị kỷ, cái
muốn đó là phàm phu. Nếu ḿnh thật
sự muốn điều đó hăy đem tâm tư của
ḿnh nguyện cho ḿnh đạt tới điều đó.
Nhưng nguyện đạt đến điều đó
không phải là sống trong hư tưởng mà nguyện
cho ḿnh đạt đến điều đó là một trạng thái hoàn
toàn tâm từ đối với ḿnh. Khác với những người
ở chung quanh, người ta cầu nguyện như một
lời năn nỉ với thần linh, người Phật
tử sống bằng tâm từ là mong mỏi chân thành về
sự an lạc hạnh phúc thanh thản đối với
tự thân của ḿnh và chỉ có người nào có tâm từ
ái với bản thân của ḿnh mới có tâm từ ái với
những người chung quanh ḿnh được và không có điều
ǵ gọi là tội lỗi hay đáng trách. Đối
với chuyên hôm nay có một người đến chùa xin
một lễ cưới, để xin một lễ cầu
phước. Quư vị nghe như vậy, thấy như
vậy trong tâm tư quư vị biết rằng người
đó đang theo đuổi một ước
mơ một nguyện vọng lớn trong cuộc đời.
Một cách đơn giản thôi, mong cho người đó
được an lạc, mong cho người đó được
thành tựu những hạnh phúc. Đó gọi
là tâm từ. Tâm từ là một nghĩa
cử cao thiện. Chữ phạn mettà cũng
gần nghĩa với chữ mitta là t́nh bằng hữu nên
chữ mettà chúng ta dịch là tâm từ cũng có nghĩa thái
độ thân thiện. Thái độ thân
thiện là không nuôi sự hiềm hận, khó khăn, đố
kỵ. Đối với người ḿnh
nghĩ rằng hăy dành một thái độ tha thiết, họ
muốn hạnh phúc cái ǵ ḿnh đem đến hạnh phúc hăy
mong cho người. Chúng ta đừng để
đầu óc của ḿnh ngự trị bởi tâm tư lúc
nào cũng khó chiu. Chúng ta không bao giờ rộng
răi một chút hào phóng một chút để mang lại hạnh
phúc hco người khác. Chỉ bằng một
thái độ thân thiện trong tâm tư của ḿnh mang lại
hạnh phúc cho người khác và đặc biệt mang lại
cho ḿnh th́ tại sao ḿnh không làm, không nghĩ tới. Tất cả những tấm ḷng, những việc
làm mang lại ích lợi cho đời đều bắt đầu
từ một hạt giống tâm từ, đó là sự mong
mỏi chân thành trong ḷng ḿnh. Quư vị đừng
nghĩ rằng ḿnh phải làm việc từ thiện xă hội
mới được gọi là tâm từ. Nếu chỉ có ư tưởng suông nhưng không thể
hiện th́ không đủ, nhưng muốn thể hiện
trước nhật hạt giống từ ái phải được
vun trồng trong tâm của ḿnh. Có nhiều
người đi làm việc từ thiện xă hội nhưng
không biết trưởng dưỡng ḷng từ, một lúc
nào đó họ bỗng thấy ngao ngán cảm thấy phiền
năo. Họ không t́m thấy được
những giá trị cụ thể, bởi v́ trong tâm tư họ
không có tâm từ. Quư vị cứ nuôi dưỡng
tâm từ, đừng sợ, đừng nghĩ rằng tại
sao ta không làm thế này làm thế nọ mà lại ngồi
xuống tu tập tâm từ và như vậy người khác
được cái ǵ. một người
tu tập tâm từ, qua lời nói hành động của họ
đi với ḷng từ. Ai có lời nói hành động đi
với ḷng từ như trong kinh Pháp cú số 2 Đức
Phật dạy: “ Ai nói hoặc làm với
tâm tư hiền htiện hành phúc sẽ theo sau như bóng không
rời h́nh “đối với bản thân của họ và đối
với người chung quanh cũng vậy. Phương
pháp niệm tâm từ là một phương pháp rất lợi
lạc, hoàn toàn vô hại và rất cần đối với
những thiền sinh thực hành thiền quán. Thỉnh thoảng có những giờ thức tập
như vậy trong khoá thiền. Chúng tôi
xin được kết thúc phần hướng dẫn tại
đây sau buổi chuyển dịch bài thực tập của
trung tâm IMS.