Trung
Bộ Kinh do Ngài Bodhi giảng
TT
Giác Đẳng chuyển ngữ ngày 03 tháng 01 năm 2006
Minh Hạnh
chuyển biên
TT
Giác Đẳng: Trung Bộ Kinh do Ngài Bodhi, Ngài là một học
giả, một danh Tăng Phật giáo gốc Hoa Ky`,
đúng ra người gốc Do Thái, đă giảng và chúng tôi
sẽ chuyển ngữ. Chúng
tôi có một kỷ niệm với Ngài, một lần rời
Washington DC về West Virgina lúc đó chúng tôi gặp Ngài Bodhi
trong một chuyến trở về từ Tích Lan để
thăm lại ngôi chùa ở Washington DC vào ngày lễ
Vesakh. Chúng tôi rất có thiện
cảm và rất kính trọng sự nghiên cứu cũng
như kiến văn của Ngài Bodhi, nên khi gặp thi` chúng
tôi đem một quyển sách
của James Allen quyển sách có tựa đề là As A Man
Thinketh, một quyển sách
chúng tôi nghĩ tuy được
viết với một tác giả hoàn toàn xa lạ với
đạo Phật và lớn lên ở trong vo`ng văn hoá Ky
Tô Giáo, nhưng sự suy nghĩ có nhiều điểm rất
gần đối với ly' nghiệp báo, đó là một
điểm rất thú vị.
Chúng tôi đem quyển sách này bàn với Ngài Bodhi, thi`
Ngài Bodhi cũng có một số chia sẻ rất bi`nh thường, nghĩa là cũng
có trao đổi, và sau đó Ngài Bodhi có nói một câu lẽ ra mấy người khác
thi` chắc phiền, nhưng
đối với chúng tôi thi` không phiền chút nào hết. Ngài nói với tôi là người ở
thế gian này viết rất nhiều kinh sách, viết ra
nhiều sách vở nhưng mi`nh là người xuất gia
chỉ riêng về lời dậy của Đức Phật
đă quá đủ để mi`nh nghiên cứu thi` mi`nh bận
tâm chi đến quyển sách này hay quyển sách kia. Thi` thưa qúi vị lời nói
đó như là lời nói nhắc nhở, nhưng trong lo`ng
chúng tôi thật sự rất hoan hỷ, đó là niềm
hoan hỷ rất lớn lao trong lo`ng, bởi vi` Sư Bodhi
là một người Mỹ gốc Do Thái, học vị ở
ngoài đời là vị tiến sĩ xuất thân từ một gia
đi`nh hoàn toàn xa lạ về đạo Phật, nhưng
khi đến với đạo Phật thi` lại là một
người có niềm tin rất kiên cố, kiên cố mà
chúng tôi có cảm tưởng không biết ngày xưa các vị
Thánh Tăng có niềm tin kiên cố đến mức độ
nào, nhưng phải nói rằng Ngài là một người vốn
có nhiều học vị cao ở ngoài đời lại
đến với Phật pháp có niềm tin như vậy,
thật sự trong lo`ng chúng tôi rất hoan hỷ. Đây là một ấn
tượng, là một cảm nghĩ khi chúng tôi gặp Ngài
Bodhi lần đầu.
Khi Ngài Nyanaponika già yếu Ngài Bodhi về Tích Lan
chăm sóc, tổ chức
Thư Quán Phật Giáo Buddhist Publication Society, Ngài đă mang lại rất nhiều
sinh khí, và rất nhiều đóng góp đáng kể về phẩm
về lượng về nội dung về hi`nh thức cho
tổ chức này. Đến
năm 2000 Ngài thấy rằng
cũng vừa phải sau mười mấy năm làm việc
cho cơ sở đó, Ngài đă trở về Hoa Ky` và rất
ti`nh cờ tại Hoa Ky` có một
tu viện của người Trung Hoa ở tại New York,
tu viện này có tên là Bodhi. Bodhi
có nghĩa là Bồ Đề hay là Giác Ngộ, tu viện
tên là Bodhi Manastery, vị tu viện trưởng vốn là
người Trung Hoa
gặp Ngài Bodhi thi` rất hoan hỷ thỉnh
Ngài Bodhi về như một vị Giáo Thọ trong tu viện
này. Và đây là một loạt
bài giảng về Trung Bộ Kinh,
được ghi âm là
ngày 7 tháng Giêng năm 2003, và bài cuối cùng mà chúng tôi
được biết là ghi âm vào ngày 4 Tây tháng 10 năm 2005,
tức là bài cuối cùng được ghi âm khoảng hai
hoặc ba tháng và vẫn co`n tiếp tục. Đặc biệt
Ngài Bodhi đă từng san định lại bản dịch
Trung Bộ Kinh của Ngài Nanamoli và cũng là người
đă viết rất nhiều bản tóm tắt Trung Bộ
Kinh đồng thời cũng là dịch giả của bộ
Tương Ưng Bộ Kinh, Ngài đă viết ra rất
nhiều bộ Sớ Giải của Trung Bộ Kinh ở
trong đó có bài Căn Bản Pháp Môn là tập Sớ Giải
quan trọng nhất.
Có thể
nói rằng Ngài là một người có rất nhiều bản
quyền giá trị trên phương diện nghiên cứu, những gi` Ngài Bodhi tri`nh bày ở
đây nó nằm trong bối cảnh đặc biệt, nó
không phải là một bài thuyết tri`nh như chúng ta ghi âm
một bài nói chuyện, đây là một bài giảng ở
trong lớp học tại tu viện Bodhi, và số thính giả
những người tham dự là những Tăng Ni Phật
tử người Hoa và một số ít người Mỹ. Hầu hết số học viên theo truyền thống Phật giáo Bắc truyền. Ngài Bodhi đặc biệt vận
dụng văn hóa của Hoa Ky` và Ngài cố gắng làm quen với văn hoá của Phật
giáo Bắc truyền để giảng giải về Trung
Bộ Kinh này, do vậy có những điều đối với
chúng ta rất quen thuộc, nhưng đối với những
người không nằm trong hệ thống Phật giáo Nam
truyền và đặc biệt không quen với truyền thống
văn hóa Hoa Ky` thi` thấy hơi lạ là, tại sao mi`nh
phải nghe nhấn mạnh như vậy, chúng ta nên hiểu
chút về bối cảnh của lớp học thi` chúng ta
sẽ thấy rằng việc đó là việc bi`nh thường
thôi. Phải nói rằng chúng tôi
ti`nh cờ ti`m thấy những bài giảng này thi` thưa
qúi vị chúng tôi rất hoan hỷ và đặc biệt
nghe những bài giảng về sau này chúng tôi thấy cách
nghiên cứu công phu rơ ràng ở một cách khoa học trong
truyền thống nằm trong những bài giảng này, và
chúng tôi tin rằng đây là công tri`nh hết sức tốt,
nhưng cái khó là chưa bao giờ
chúng tôi thí nghiệm dịch một bài giảng Anh ngử ở trong paltalk hết.
Thưa
quí vị nếu ở trong bốn tuần lễ tới nếu
chúng tôi thấy rằng chương tri`nh này có phần lợi
lạc cho qúi Phật tử xa gần thi` chúng tôi sẽ
thưa với Sư Trưởng và TT Tuệ Siêu có một
vài thu xếp để tiếp tục chương
tri`nh. Người Tây
phương có một điểm chúng ta phải học
đó là làm việc có phương pháp, người Đông
phương của chúng ta thi` tinh thần dễ hoà hài, dễ
chấp nhận nhưng ngược lại thi` thường
thường cách làm việc của chúng ta mang tính thủ
công hơn, tự biên tự diễn nhiều hơn là làm việc
có tuồng lớp có phương pháp. Chúng tôi nghĩ rằng những
nhà Sư Phật giáo người Âu Mỹ đến với
Phật giáo như những nhà Sư Ngài Achaan Cha hướng
về đời sống thiền định, hướng
về pháp hành nhiều, thi` những vị đó có những
đóng góp đáng kể về phương diện tổ
chức chùa chiền về phương diện giáo khoa, về
phương diện hướng dẫn Phật tử, và
quả thật rất lợi lạc để chúng ta những
người Phật tử Á Châu học hỏi điều
đó, điều lạc quan lớn nhất của chúng tội
đối với Phật giáo đó là Phật giáo thật
sự bắt rễ ở Tây phương và đă có những
danh Tăng, có những người Phật tử đă xả
thân ra để làm những công việc hoằng pháp, ví dụ
như ngày hôm qua chương tri`nh hướng dẫn thiền
tập của Ngài Mahasi Sayadaw đă được thực
hiện một cách có phương pháp, một cách phổ
thông để những thiền sinh bởi những người
hướng dẫn thiền tại IMS tức là Insight
meditation Society, đó cũng là công tri`nh của người
Âu Mỹ đối với đạo Phật, hôm nay
là một công tri`nh khác. Nếu chúng ta có được cơ duyên để
ti`m hiểu, để chia sẻ, để hội nhập,
để trao đổi thi` thưa qúi vị chúng tôi thấy
rằng việc đó lợi lạc rất lớn. Một lần nữa xin nói rằng
lớp học này hơi đặc biệt một chút là bởi
vi` bài giảng của Ngài bodhi là bài giảng cho một lớp
học do đó nó cũng dài, chúng tôi chỉ đi phân nửa
của phần này thôi, tuần tới chúng tôi sẽ đi phần co`n lại
để có thi` giờ Chư Tăng thảo luận và có
thể vi` đây là băng ghi
âm để phát lại do đó nếu chúng tôi thấy có
gi` cần chúng tôi sẽ thảo luận với Chư
Tăng. Quí vị vừa nghe
Ngài Bodhi giảng vừa nghe chúng tôi chuyển ngữ lại
vừa có phần thảo luận của Chư Tăng,
chúng tôi hy vọng rằng cái cố gắng này là cố gắng
mang lại lợi ích cho đại chúng đang có mặt ở
trong rơom.
Chúng
tôi vẫn chưa có thi` giờ để lo về vấn
đề kỹ thuật, chúng tôi phải làm một cách rất
cổ điển, là chúng tôi phải dùng hai nick, một nick
phát băng giảng và một nick khác thi` chúng tôi chuyển
ngữ, qúi vị thấy nick
Ưu Đàm là nick chúng tôi đang dùng và nick TK Giác Đẳng
cũng là nick chúng tôi dùng, một lúc dùng hai nick trong lúc giảng
chúng tôi phải dùng hai máy và do vậy có chuyện chạy
qua chạy lại, nhưng chúng tôi đă thử một vài
lần và thấy rằng cũng đáp ứng với nhu cầu
cho qúi Phật tử tuy rằng nó mang tính thủ công một
chút, nghĩa là không có cái mixer, chúng tôi có cái mixer nhưng
chưa có thi` giờ để câu giây lại, do đó qúi vị
Phật tử hoan hỷ về chuyện đổi qua
đổi lại này. Ở
trên paltalk khi chúng ta nói chúng ta phải dùng microphone, và khi chúng ta
phát ở trong máy thi` chúng ta phải để trên stereo mic
hay auxiliary quí vị Phật tử thông cảm cho một
chương tri`nh xem ra rất hiện đại nhưng
được thực hiện với kỹ thuật cách
đây mấy chục năm, chúng ta tạm dùng kỹ thuật
xưa để làm công việc ngày hôm nay.
Bây
giờ chúng ta có thể bắt đầu bài học ngày hôm
nay, bài này
không có đi vào nội dung của kinh nào hết, hôm nay là
bài giới thiệu Trung Bộ Kinh.
Đặc biệt Ngài
Bodhi không giảng theo thứ tự như chúng ta ti`m thấy
trong Trung Bộ Kinh, bài đầu tiên là kinh Căn Bổn
Pháp Môn và sau đó là kinh Nhất Thiết Lậu Hoặc hay
kinh Pháp Tụ v.v... không phải
như vậy, ở đây Ngài Bodhi sắp theo từng thể
tài, ví dụ như phần một nói về sự giác ngộ của
Đức Phật thi` ở trong đó có tất cả là 6
bài kinh, phần thứ hai nói về phương pháp thực
hành của giáo pháp thi` ở trong đó có chừng 8, 9 bài và
như vậy hiện tại
chúng ta đă có đến phần thứ bảy, trong
phần thứ 7 này là sau phần tu học về giới
định huệ v.v... Mỗi một thể tài như vậy
trong đó có nhiều bài kinh tiêu biểu và những bài kinh
này tất cả đều là Trung Bộ Kinh hết,
đây là một phân loại, sắp xếp giảng giải
rất lợi lạc cho quí Phật tử, chúng tôi có thể
nói với qúi vị rằng qúi vị đang có tư liệu
giảng giải tốt nhất về Trung Bộ Kinh mà
chúng tôi được biết từ trước đến
bây giờ và chúng tôi hy vọng rằng qúi vị sẽ
đón nhận chương tri`nh giảng giải này của
Ngài Bodhi như một chảng
mực hết sức y' nghĩa trong năm 2006 này. Bây giờ quí vị hoan hỷ cho
chúng tôi bắt đầu bài học ngày hôm nay với bài giảng
của Ngài Bodhi, chúng tôi xin nói một điều là nếu
qúi vị bị trục trặc ban đầu thi` qúi vị
thông cảm cho chúng tôi.
Phần
chuyển ngữ của TT Giác Đẳng: Sau khi lễ Phật bằng tiếng Phạn
và lễ Phật bằng tiếng Quang Thoại: Nam Mô Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật thi` Ngài Bodhi bắt đầu buổi
giảng. Ngài nói rằng lớp
học này sẽ đặc trọng
tâm vào sự giảng dậy Trung Bộ Kinh và sự sắp
xếp thứ tự của những bài giảng này không
theo tương tự mà chúng ta ghi nhận ở trong chánh tạng
từ bài kinh thứ nhất cho đến bài kinh thứ
152 sẽ được Ngài Bodhi xếp đặc như
một thể tài, và những thể tài này có thể giúp cho
qúi Phật tử có được sự tập trung
căn bản cái gi` là cái mà chúng ta sẽ đề cập
đến, do vậy đây là sự sắp xếp do vị
Giảng Sư chứ không phải sắp xếp theo các vị A Xà Lê trong các lần kết tập
Tam Tạng.
Mặc
dầu không theo thứ tự sắp xếp theo các phẩm
ở trong kinh, tuy nhiên riêng nội dung của từng bài
kinh thi` vị Giảng Sư tức là Ngài Bodhi sẽ tôn trọng
y nguyên văn như cách giảng giải đă được
Đức Phật Ngài tri`nh bài, một cách giảng giải
rất tốt cho chúng ta. Có nghĩa
là thứ tự số mấy giảng trước và số
mấy giảng sau đó, đó là cách sắp xếp của
vị Giảng Sư, nhưng một khi đă đi vào từng
bài kinh thi` sẽ nhi`n bố cục của nội dung của
kinh đó và phần đầu là ở đây Ngài Bodhi sẽ
tập trung vào sự giác ngộ của Đức Phật
và chính phần này sẽ cho chúng ta thấy rằng tại
sao Đức Phật gọi là vị Sammàsambudho một vị
Chánh Đẳng Chánh Giác hay vị Chánh Biến Tri, một vị
Toàn Tri Diệu Giác. Đó là phần thứ nhất
mà chúng ta sẽ tập trung vào.
Trong
phần thứ nhất của khóa giảng Trung Bộ Kinh
này sẽ nói về sự giác ngộ của Đức Phật
mà ở đây theo sự lựa chọn của Ngài Bodhi sẽ
có 6 bài kinh và bắt đầu với bài kinh Thánh Cầu
Ariyapariyesanà Sutta, nhưng riêng với bài kinh Thánh Cầu thi`
không dùng hết bài kinh chỉ nửa bài kinh thôi bởi vi`
bài kinh Thánh Cầu (Ariyapariyesanà Sutta) là nói về hành tri`nh
giác ngộ của Đức Phật ở trong kiếp sau
cùng và ở đoạn sau thi` riêng một số phần nữa
mà chúng ta sẽ đáo trở lại tuy nhiên phần đầu
thi` chúng ta chọn riêng một phần của kinh Thánh Cầu. Và ở đây Ngài cũng nói thêm rằng
chúng ta sẽ làm sáng tỏ thế nào là sự giác ngộ của
Đức Phật, đối với nhiều người
thi` điều này nó vẫn là cái gi` rất mơ hồ, có
thể nói rằng sự giác ngộ của Đức Phật
là thế này là thế khác thi` bây giờ qua chính cái ngôn ngữ,
do chính lời dậy của Ngài chúng ta có thể nhi`n thấy
được thế nào là tuệ giác của Đức
Phật. Đó là nội dung
chính của phần đầu tiên của lớp Trung Bộ
Kinh này.
Trong
phần giảng này mở đầu bằng kinh Thánh Cầu
và sau đó có những bài kinh như Bhayabherava Sutta kinh Sợ
Hăi và Khiếp Đảm hay là bài kinh số 36, kinh Mahàsaccaka
Sutta Đại
kinh Saccaka và đặc biệt
trong chương tri`nh giảng này cũng có vay mượn
một số đoản kinh lấy từ Samyutta Nikàya tức
là Tương Ưng Bộ Kinh và D́gha Nikàya tức là Trường
Bộ Kinh. Những đọan
sẽ được mang vào đây để cộng thêm
phần nói về hành tri`nh giác ngộ của Đức Phật,
những cái gi` mà Ngài trải qua trong thời ky`
tu khổ hạnh, trong thời ky` ti`m ra ánh sáng của trung
đạo. Có thể nói rằng
thông thường những người Phật tử không
lưu tâm nhiều về những khía cạnh này, mà chỉ
ca ngợi Đức Phật như là Đức Đại
Giác, nhưng chúng ta thử đặt lại những chi tiết
miêu tả mà Ngài đă kể lại kinh nghiệm vừa
qua ở đó đă cho chúng ta thấy nhiều điểm
hết sức lợi lạc về sự tu tập.
Trong
phần tiếp theo chúng ta sẽ nói về phương pháp
để lănh hội giáo pháp của Đức Phật hay
lănh hội chân ly' cánh cửa dẫn đến giác ngộ
mà qua đó chúng ta sẽ nghe được nhiều kinh
điển của Đức Phật, những kinh điển
về sự thành công và kinh điển về sự thất
bại, thi` con đường dẫn đến giác ngộ
ở đây được hiểu như một hành
tri`nh, hành tri`nh đó có nhiều thử thách cam go, nhiều
điều phải đương đầu, nhiều
điều phải vượt qua và những lần sau
đó nói về phương pháp tu tập từ phần một
cho đến phần 7, qua sự tu tập hết sức
cụ thể, sau phần 8 chúng ta sẽ có dịp trở lại
nói về nhận thức của người Phật tử
đối với Đức Phật, phần 9 và 10 chúng ta
sẽ nói về Tăng già, sẽ nói về hội chúng của
Đức Phật. Đó là một
số các thể tài mà chúng ta có thể lượt qua khi
đề cập đến nội dung của lớp Trung
Bộ Kinh này. Và thỉnh thoảng
bên cạnh những chánh kinh của Trung Bộ Kinh thi` chúng
ta cũng ghi nhận có một số những Phật ngôn
được ti`m thấy ở trong những bộ kinh
khác như Trường Bộ Kinh, kinh Tăng Chi, kinh Tiểu
Bộ v.v... bộ nào rơ nghĩa, bộ
nào thâm thúy hơn nhưng nội dung chính vẫn xoay ở
chung quanh những bài giảng về bài kinh của kinh
Trường Bộ.
Chương
tri`nh sẽ kéo dài khỏang hai năm, và thưa qúi vị
chương tri`nh này đă thực hiện xong như chúng
tôi nói với qúi vị bắt đầu từ tháng Giêng
năm 2003 và đă hoàn tất vào tháng 10 năm 2005,
chương tri`nh đă được giảng xong ở
tu viện Bodhi tại, tiểu bang New York. Và hôm nay chúng ta lại có dịp
đi trở lại bằng những băng ghi âm này. Trong phần đầu thi` trong buổi
học ngày hôm nay Ngài Bodhi sẽ giới thiệu về
Trung Bộ Kinh và trong sắp tới thi` chúng ta sẽ nghe
Ngài nói về việc hi`nh thành hệ thống hoá Tam Tạng
kinh điển như thế nào, chúng ta sẽ được
đi vào một số chi tiết lịch sử của
kinh điển đó là phần mà chúng ta sắp nghe tiếp
theo.
Ở
đoạn này là một đoạn ngắn mà Ngài Bodhi muốn
nói với các học viên trong lớp họ đó là mặc
dầu Ngài được mời ở đây là một vị
Giảng Sư là một người có trách nhiệm, Ngài có
thẩm quyền tri`nh bày y' nghĩa nội dung các bài kinh,
nhưng Ngài rất hoan hỷ để các học viên nếu
cần hỏi hoặc lập lại những gi` cần hỏi,
những gi` cần lập lại thi` có thể đưa
tay lên và tất nhiên đây là băng ghi âm nên chi những
điều đó đă không giúp gi` cho chúng ta ở trong
rơom tại đây và trong lúc chúng tôi chuyển dịch ở
đây thi` chúng tôi cũng không khuyến khích qúi vị Phật
tử đưa tay lên để đặt câu hỏi bởi
vi` chúng tôi phải tập trú vào lời Ngài nói để có
thể dịch lại cho quí vị, tuy nhiên đến khi
Chư Tăng thảo luận thi` quí vị có thể nêu lên
câu hỏi và qúi vị cũng có
thể đưa tay lên để hỏi v.v...Nhưng
chúng tôi chỉ dịch lại để quí vị thấy
rằng băng ghi âm đă ghi lại một số sinh hoạt
ở trong lớp học nó không nhất thiết là nó
đáp ứng nhu cầu ở trong rơom Diệu Pháp
paltalk của chúng ta.
Chúng ta hăy nói về kho tàng kinh điển của
đạo Phật và ở đây nói về hệ thống
kinh điển của Phật giáo Nguyên Thủy hay là Phật
giáo Nam Truyền. Kho tàng kinh điển
của đạo Phật thường được gọi
danh từ chuyên môn là tipitaka hay là Tam Tạng. Nghĩa đen của
chữ tipitaka là cái giỏ, nó để chứa, là basket là
cái giỏ. Và ba kho tàng
kinh điển ở đây gồm có, Vinaya pitaka là bao gồm
những giới luật của người xuất gia của
Ty` khưu Ty` khưu ni. Và tạng thứ hai gọi là kinh
tạng là ghi lại những bài pháp, những pháp thoại
của Đức Phật và một số lời dậy của
các đệ tử quan trọng của Đức Phật,
đồng thời cũng ghi nhận một số sinh hoạt
của những đệ tử Phật thời Đức
Phật co`n tại thế.
Đó là nội dung của tạng kinh mà chúng ta gọi
là Sutta pitaka. Và tạng thứ
ba là tạng Abhidhamma pitaka mà chúng ta gọi là tạng Diệu
Pháp hay là tạng A Ty` Đàm. Đây là một bộ phận
kinh điển mà qua đó giáo pháp của Đức Phật
được tri`nh bày một cách tuần
tự có phương pháp như giáo khoa và với những
thuật ngữ chuyên môn mang tánh cách phân tích đào sâu. Và thưa qúi vị đặc biệt
là một vài tác phẩm của A Tỳ Đàm được
ghi nhận là được đem vào kinh điển của
đạo Phật vào thế kỷ thứ ba tức là 300
năm sau khi Đức Phật Ngài viên tịch và trong tạng
A Ty` Đàm thi` chúng ta sẽ ti`m thấy một
phương pháp tri`nh bày hoàn toàn khác hẳn với những
pháp thoại được ghi nhận ở trong kinh tạng
này.
Trong ba tạng kinh điển của đạo
Phật có lẽ là kinh tạng là tạng phổ thông nhất
và dễ dàng thích hợp nhất cho những người
nghiên cứu về đạo Phật ngày hôm nay ti`m đến,
ít nhất là ở trong giai đoạn tiên khởi. Kinh tạng hay
là sutta pitaka được chia thành 5 bộ và trong danh từ
Phật học chúng ta gọi là Nikaya, kinh Nikaya là bộ kinh
ở đây được hiểu như là một
collection hay là một sưu tập, 5 bộ đó được
bắt đầu bằng bộ D́ghanikaya gọi là kinh
Trường Bộ gồm những
bài kinh dài và bộ kinh thứ hai gọi là Majjhimanikaya là kinh
Trung Bộ tức là gồm những bài kinh với những
thời luận kinh luận tức là bộ kinh mà chúng ta
đang học ở tại đây, bài kinh này thường
ghi lại những pháp thoại Đức Phật Ngài giảng
trong hầu hết những lần thuyết cho Chư
Tăng tại chùa trong những ngày Đức Phật Ngài
bắt buộc giảng giải cho Chư Tăng và bộ
kinh thứ ba chúng ta gọi là kinh Tương Ưng bộ
Samyuttanikaya. Samyutta có nghĩa
là kết cầu hay là hỗn hợp, hay là tập trung,
chúng ta có thể nói rằng mỗi chương thí dụ
như tương ưng về càn thác bà hay là tương
ưng về thí hay về giới, thi` ở trong một phẩm
như vậy nó gồm có nhiều như tương
ưng càn thác bà là nhiều bài kinh ngắn nói về càn thác
bà gồm lại trong một thể tài. Bộ kinh thứ ba chúng ta gọi
là Anguttarinikaya là kinh Tăng Chi Bộ tức là những
đề pháp được sắp theo
thứ tự gồm những con số Đức Phật
có khi Ngài nói rằng: Có hai pháp cần phải được
tu tập, hoặc có ba pháp cần phải đoạn trừ,
hay có bốn pháp cần phải xả ly v.v... Thi` khi Ngài đưa ra những cái một, hai, ba,
bốn thi` kết tập lại từ pháp một số
cho tới số có 11 chi pháp.
Và bộ sau cùng chúng ta gọi là Tiểu Bộ Kinh
Khuddakanikaya, tên của bộ Tiểu Bộ Kinh này thường
được hiểu tương đối lầm lẫn
một cách đáng tiếc, chữ khuddaka là nhỏ người
ta dịch là Tiểu Bộ Kinh nhưng mà sưu tập kinh
này không phải là những tác phẩm tầm thường
hay nó nhỏ, mà là những tác phẩm sưu tập, những
kệ ngôn ngắn, những lời dậy ngắn,
nhưng những tác phẩm này trong Tiểu Bộ Kinh thi` cực
ky` quan trọng. Thí dụ
như bộ Pháp Cú Dhammapada hay là sutta Nipatà bộ kinh tập,
Theragàthà Trưởng lăo Tăng Kệ, Therigàthà Trưởng Lăo Ni kệ Jàtaka là kinh Bổn Sanh, Bộ Kinh
Tập phải nói rằng cực ky` quan trọng ở
trong những bộ kinh điển của đạo Phật,
nhưng ở đây chữ khuddaka hay là Tiểu Bộ không
hàm y' rằng đây là những sưu tập của những tác phẩm
nhỏ hay nó cũng không hàm y' rằng đây là những gi`
thuộc về linh tinh, linh tinh
là những gi` vụn vặt không quan trọng như
những bài kinh kia, không phải như vậy, ở trong Tiểu
Bộ kinh có những bộ rất quan trọng. Đó là chúng ta đi qua về 5 bộ kinh của
gọi là Tạng kinh ở trong Tam Tạng kinh điển
của Phật giáo.
Khi
chúng ta vừa nghe nói về 5 bộ kinh thi` chúng ta có cảm
tưởng như là những bộ kinh này được
phân loại thành hi`nh thức, ví dụ như Trường
Bộ là những bài kinh có những bài pháp dài, kinh Trung Bộ
là gồm có những bài kinh trung bi`nh, nhưng thật sự
không phải hoàn toàn như vậy, chúng ta có thể nói
như vầy là trong trường hợp của Trường
Bộ Kinh chúng ta ti`m thấy rất nhiều bài kinh như
là một tiểu giảo, một đối pháp, một
đối thoại của đạo Phật đối với
ngoại đạo, đối với những tôn giáo khác,
và Trung Bộ Kinh thi` tập trú vào sự tu tập, do vậy
đừng nghĩ một cách đơn giản là sự
phân loại của các kinh tạng dựa trên hi`nh thức,
mà là ở trong đó nó cũng mang nội dung nữa và chính
vi` vậy Ngài Bodhi đă lựa chọn bộ Trung Bộ
kinh, một bộ kinh có nhiều nội dung sưu tập
để làm giáo tài của lớp học này.
Qúi vị
đang nghe bài giảng Trung Bộ Kinh của tuần lễ
đầu giới thiệu về Trung Bộ Kinh của
Ngài Bodhi một vị danh Tăng Phật giáo người gốc
Do Thái và được chúng tôi chuyển ngữ trực tiếp
trong rơom Diệu Pháp.
Chúng
ta cần ghi nhận rằng đạo Bà La Môn là một
tôn giáo đă chiếm ngự nền văn hoá của Ấn
Độ vào thời đó và cũng kể cả ngày hôm
nay. Trong kinh tạng thi` chúng ta
thấy rằng có nhi`n lại những đối thoại
những miên trội của giáo pháp của Đức Phật
đối với Bà La Môn giáo và ngay cả bản thân của
Đức Phật cũng ti`m thấy những hi`nh ảnh
cao siêu vượt thoát vượt lên trên những thần
linh của Bà La Môn được thờ phượng, thí
dụ như Đế Thích, Phạm Thiên v.v... thi` chúng ta sẽ
thấy rất nhiều những tương phản, những
tỷ giảo, những đối thoại giữa đạo
Phật và đạo Bà La Môn giáo ở trong tạng kinh,
điều đó là điều rất tự nhiên vi` đó
là bối cảnh mà đạo Phật ra đời.
Nếu
kinh Trường Bộ đề cập đến nhiều
những tiểu giảo, những đối thoại của
Đạo Phật đối với Bà La Môn giáo, thi` kinh
Trung Bộ lại mở cho chúng ta một nội dung
tương đối khác biệt.
Chúng ta đọc kinh Trung Bộ thi` chúng ta sẽ nhận
ra rằng đó là những lời dậy cho những
người đă bắt đầu hành tri`nh giác ngộ giải
thoát, những điều này cần hướng dẫn những
gi` nên làm, cái gi` phải vượt qua ở trong con
đường nội tâm của mi`nh, ở trong sự tu
tập bản thân của mi`nh, do vậy nội dung của
Trung Bộ Kinh thi` ít hẳn về phương diện so
sánh với Bà la Môn giáo và nghiên hẳn về sự tu tập
của tự thân, đó là sự khác biệt giữa kinh
Trường Bộ và kinh Trung Bộ. Một lần nữa cho chúng ta thấy
rằng không thể lấy hi`nh thức
để nhi`n được và bên cạnh đó co`n có những
khía cạnh liên quan đến nội dung cần được
ghi nhận ở đây.
Chúng
ta cũng được biết rằng những bộ
kinh được đề cập đến ở
đây được ghi nhận từ trong Tam Tạng kinh
điển Pali, tức là kinh điển của Phật
giáo Nguyên Thủy hay Phật giáo Nam Truyền. Kinh Tạng Nikaya hay kinh Tạng nhi`n thấy ở
một số các tông phái khác với một tên gọi khác là
Agama hay A Hàm. Chữ A Hàm có nghĩa là truyền
thống hay di
sản, chữ A Hàm này được dùng để ghi những
bộ kinh trong Phật giáo Bắc Phạn hay Phật giáo Trung Hoa. Tại Trung Hoa thi` kinh A Hàm này không
nhất thiết mang nội
dung hoàn toàn giống với những bộ kinh Nikaya ở
trong kinh tạng Pali, tuy vậy nó cũng có những gần
gũi, có những tương đồng ở phần lớn
nhiều bài kinh mà những công tri`nh của những học
giả nghiên cứu, so sánh thi` cho thấy rằng tuy rằng
có một số các chênh lệch, một số dị bản
như giữa A Hàm và kinh Tiểu Bộ tức là giữa
Agama và Nikaya vẫn có một số những điểm
tương đồng rất đáng kể được
ghi nhận tại đây.
"Chúng
tôi xin lưu y' qúi vị là Ngài Bodhi khi Ngài giảng bài này
Ngài đứng trước bản đen do vậy trong phần
tài liệu thi` Ngài phải viết lên trên bản, do đó
quí vị có nghe một số tiếng lục cục,
đó là tiếng viết trên bản và trong lúc chúng tôi chuyển
dịch lại qúi vị nghe lục cục thi` không phải
chúng tôi đang viết trên bản mà là chúng tôi đang gơ vào bàn phím, đó chỉ
là ti`nh cờ chứ không phải chúng tôi muốn dịch
luôn ở trong bản dịch này."
Chúng
ta có thể nói rằng kinh Trung Bộ mang đặc tính cổ
kính của kinh điển của đạo Phật, sự
cổ kính này đă đi trước thời ky` mà đạo
Phật bị phân hoá, kinh Trung Bộ được các học
giả ghi nhận và những bản kinh ghi lại lời
dậy nguyên thủy của Đức Phật, do vậy
chúng tôi nghĩ rằng rất là cần thiết để
có một vài tri`nh tài liên quan đến lịch sử là
kinh điển đạo Phật đă được kết
tập như thế nào.
Một
điều mà chúng ta thường ghi nhận trước nhất là thời
Đức Phật co`n tại thế và cho đến 400
trăm năm sau khi Đức
Phật Ngài viên tịch thi` sự truyền thừa về
giáo pháp được thực hiện theo phương pháp
gọi là truyền khẩu, và sự truyền khẩu này
là một phương pháp rất đặc biệt mà qua
đó những người học tro` trực tiếp học
thuộc lo`ng những gi` mà vị Thầy dậy cho
mi`nh. Chúng ta hăy lắng
nghe phần sau để biết thêm một số chi tiết
về sự truyền khẩu được thực hiện
như thế nào.
Chúng
ta hăy đi vào một chút lịch sử liên quan đến
việc hệ thống hoá kinh điển Tam Tạng mà
chúng ta biết với sự phân loại các bộ kinh ngày
nay không phải là hi`nh thức nguyên thủy
của đạo. Thời
Đức Phật co`n tại thế thi` kinh điển
được truyền khẩu mà thời đó người
ta sắp xếp, thời đó Đức Phật Ngài cũng
sắp xếp là kinh điển được chia theo 9 loại
kinh hay là 12 loại kinh như
là Khế Kinh, Phúng Tụng, Phương Quảng, Tự
Thuyết Vị Tằng Hữu, Bổn Sanh v. v....Sau khi
Đức Phật Ngài viên tịch tại một thành phố
có tên là Kusinara là một thị trấn nhỏ của xứ
Magadha và bởi vi` Ngài Bodhi giảng thi` Ngài có bản đồ
Ấn Độ để Ngài giảng về địa
danh ở đây chúng ta không có bản đồ Ấn Độ
nên chúng tôi chỉ có thể nói miệng chứ chúng tôi không
thể chỉ cho quí vị được. Sau khi Đức Thế Tôn Ngài
viên tịch ba tháng thi` 500 đệ tử gọi là ưu
việt của Ngài là những bậc hoàn toàn giác ngộ những
bậc A La Hán giác ngộ đă có một đại hội
để kết tập tam tạng, kết tập những
lời dậy của Đức Phật chúng ta không thể
gọi là kết tập tam tang vi` thời đó chưa có
Tam Tạng, kết tập những lời dậy của
Đức Phật ở tại kinh đô lớn của xứ
Ma Kiệt Đà có tên là Rajagaha ngày hôm nay chúng ta gọi là Ma
Chiên Diên trong kinh chữ Hán thi` gọi là Vương Xá
Thành. Ở trong cuộc kết
tập Tam Tạng này cũng như những lần kết
tập Tam Tạng lần sau đó được ghi lại
trong một phần của tạng luật tức là phần
thêm về sau này của tạng luật thi` qua đó cho
chúng ta thấy trong thời ky` ban sơ pháp và luật của
Đức Phật chỉ ghi lại có hai phần thôi một
là liên quan đến giới luật của hạng xuất
gia như là giới bổn của ty` kheo, ty` kheo ni, những
Tăng sự và điều thứ hai là những cái gọi
là suta là những lời dậy
của Đức Phật qua những sự tu tập. Đúng ra trong những sưu tập
này thi` căn bản chỉ có bốn bộ thôi là kinh
Trường Bộ, kinh Trung Bộ, kinh Tương Ưng,
kinh Tăng chi và Tiểu Bộ kinh cũng là một sưu
tập khác, nhưng Tiểu Bộ kinh lại mang một nội
dung như là một sự sắp xếp trở thành một
tác phẩm ví dụ như Pháp Cú thi` ở trong đó ghi lại
những bài kệ ngắn để tu học, có 423 bài kệ
như vậy trở thành tác phẩm và 423 bài kệ này cũng
nằm rải rác ở nhiều nơi khác và dĩ nhiên là
chúng ta không thấy đề cập đến Abhidhammatha
tức là tạng A Ty` Đàm, và đây cũng thêm một
điều là chúng ta rất ngạc nhiên khi thấy sự
ghi nhận ở trong tạng luật đề cập
đến điều này, với một số vị thi` ở
trong thời ky` đó thi` 6 bộ
A Ty` Đàm mà ngày hôm nay nằm trong bộ mà chúng ta gọi
là Tiểu Bộ Kinh Khuddaka Nikaya, chúng ta sẽ nghe lại một
số chi tiết của bộ kinh Khuddaka Nikaya, một bộ
rất đặc biệt về lịch sử về sau
này. Riêng về trở lại
với phương pháp về truyền khẩu thi` Ngài
Bodhi có đề cập đến một việc đó là
sau khi kết tập xong thi` các vị A Xà Lê lựa chọn
thành phương pháp là ti`m những
vị có trí nhớ, khi nói đến trí nhớ thi` những
vị có trí tính rất tốt, nói về trí tính tốt thi`
chúng ta phải nói đến một nhân vật lịch sử
đó là Ngài Ananda, Ngài được xem như là một
người có trí tính phi thường, ở trong kinh nói rằng
Ngài có thể nhớ được 84,000 bài pháp của
Đức Phật, nhớ một cách không sai chạy mà
Ngài Bodhi nói đùa rằng ngay cả cái recorder bây giờ tức
là bây giờ máy thâu âm cũng chưa chắc đă bằng
Ngài Ananda, Ngài Ananda có trí tính rất
tốt, nhưng thế hệ về sau này thi` người
ta có một cách là một cách học thuộc lo`ng, những vị Thầy lựa những
học tro` và mỗi người học tro` thi` học một
bộ kinh, ví dụ như có những vị chuyên thọ
tri` bộ kinh, có những vị chuyên thọ tri` kinh Trung Bộ,
có những vị chuyên thọ tri` kinh Tăng Chi hay là
Tương Ưng và thuộc nằm lo`ng nhuyên nhuyễn
không sai chạy những chi tiết
đó. Tức là thời ban
đầu sau khi kết tập tại thành Vương Xá rồi
thi` từ đó trở đi phương pháp khẩu truyền
phải dựa lên trên sự học thuộc lo`ng của
các vị Tăng sĩ được tuyển chọn những
vị mà có tính khí tốt và có sự tinh tấn hay sở
thích chịu khó trong việc học thuộc lo`ng.
Chúng
ta mới được nghe đó là vào thời Đức
Phật co`n tại thế cũng như 400 năm sau đó
thi` tất cả sự gi`n giữ giáo pháp của Đức
Phật đều dựa vào sự truyền khẩu, dựa
vào trí tính của vị Ty` kheo, lúc bấy giờ các vị
chia ra những vị nào thọ tri` một bộ kinh
như thọ tri` kinh thi` nằm lo`ng gi`n giữ một bộ. Ngay cả khi đạo Phật
truyền sang xứ Tích Lan vào thế kỷ thứ ba sau khi
Đức Phật viên tịch thi` cũng bằng
phương pháp đó để gi`n giữ giáo pháp tại
Tích Lan, nhưng rồi bây giờ Tích Lan trải qua hai cái nạn;
quốc nạn và pháp nạn.
Về quốc nạn
đó là nạn đói xảy ra, có nhiều vị Ty`
kheo bị đói rồi chết đi, thi` bấy giờ
có những bộ kinh như vậy, từng bộ hay một bộ kinh tiếng Pali chẳng
hạn, duy nhất chỉ co`n một vị duy nhất sống
xót, mấy vị kia chết hết, tức là trước
kia Trung Bộ có nhiều vị thọ tri` nhưng lúc
đó có thể nói là có những bộ kinh mà chỉ có một
vị thọ tri` co`n sống xót thôi. Cũng có thời gian Chư
Tăng cảm thấy rằng có sự thù nghịch đối
với Tăng già, và có thể
sẽ bắt giết đi những vị Ty` kheo có trách nhiệm để truyền
khẩu, nên các vị Ty` kheo
đă tập hợp một nơi xa kinh thành để làm
một quyết định đó là trùng tụng lại tất
cả Tam Tạng kinh điển để lưu lại
trên một lá mà chúng ta gọi lá Bối hay lá Buông, ở Việt
Nam chúng ta không có, nó là một loại cây giống như cây
palm ở bên Mỹ, thi` lá đó gọi là lá Bối hay là bối
điệp, nó có cái đặc biệt là sau khi đă
được đem đi ngâm phẩm và phơi nắng
thi` nó có độ bền như là giấy và được
giữ trong thời gian rất lâu.
Đúng ra thi` chúng tôi đă có một lần được
nhi`n thấy một bản kinh lá bối mà có số tuổi
là 800 mấy chục năm, thi` thưa qúi vị là kể
ra nó một thứ giấy tốt.
Khi đi về Tích Lan thi` chúng tôi hay đi bộ
dưới những hàng cây đó để nhớ đến
thời mà ngày xưa các Ngài đă phải dùng giấy này, dùng cái lá diệp
này để chép kinh, và như
vậy 400 năm sau Đức Phật Ngài viên tịch thi`
kinh điển của đạo Phật được
chính thức viết lên trên lá bối bằng văn tự,
đó là lịch sự mà chúng ta được nhi`n nhận
như vậy.
Mặc
dầu kinh điển của đạo Phật được
chép ở trên lá bối tuy nhiên truyền thống mà chúng ta gọi
là truyền khẩu, cách truyền khẩu cổ vẫn
co`n gi`n giữ tiếp tục qua nhiều thế hệ và
ngay cả ngày hôm nay nếu chúng ta đến Miến Điện
thi` vẫn co`n có những vị thuộc nằm lo`ng trọn
cả bộ Tam Tạng, chúng ta nói nguyên cả bộ Tam Tạng
kinh điển chứ không phải
là một cuốn hai cuốn, một bộ mà nguyên cả
Tam Tạng kinh điển và một điều cho chúng ta
thấy rất rơ là khả năng học thuộc lo`ng Tam
Tạng là một khả năng tuy rằng rất là khó tin
lại có thật, như ngày hôm nay chúng ta vẫn co`n có những
vị thuộc lo`ng Tam Tạng và đừng nghĩ rằng
trí tính của con người không thể học thuộc
lo`ng Tam Tạng như vậy,
đồng thời sự chính xác của phương
pháp khẩu truyền hay truyền khẩu có thể nói rằng
đă được chứng minh rất rơ ràng, thậm trí
nó co`n gi`n giữ được y nguyên của kinh điển
hơn là sách vở in bị tam sao thất bổn nữa,
do vậy đây là một lợi điểm rất lớn
cho tất cả chúng ta khi chúng ta đề cập đến
khẩu truyền.
Dĩ
nhiên là chúng ta cũng phải nói đến một lợi
thế khác liên quan đến việc truyền khẩu
đó là Tam Tạng kinh điển Pali, Tam Tạng Phật
Giáo Nguyên Thủy dựa trên một ngôn ngữ gọi là
điển ngữ nhất định đó là tiếng
Pali, dầu rằng đó là người Tích Lan, người
Miến Điện, người Thái, người Ấn
Độ v.v... thi` khi học kinh điển Pali thi` đều
nằm lo`ng Phạn ngữ, học Phạn ngữ trước,
chứ không phải mỗi một địa phương
thi` có bản dịch riêng biệt như hôm nay, tự nhiên
chúng ta muốn học Tam Tạng kinh điển mà chúng ta
không biết tiếng Phạn, chúng ta đọc tiếng
Anh mà không biết của ai dịch của cơ sở nào
v.v... và v.v... Một trong những ly' do
truyền khẩu rất là tốt đó là có một ngôn ngữ
gọi là điển ngữ đồng nhất ở trong
việc học tập kinh điển.
Thưa
quí vị chúng ta mới đi đến gần nửa bài
học thôi, một bài học thi` 65 phút và hiện tại
thi` chúng ta đă đi được 25 phút ở trong
băng thâu âm là bởi vi` cũng co`n có nửa đồng
hồ nữa thôi, nên chúng tôi xin được tạm
ngưng bài giảng của Sư Bodhi ở tại đây,
phần co`n lại là sử liệu liên quan đến phần
giới thiệu Trung Bộ Kinh, chúng tôi sẽ trở lại
trong tuần tới./.