Hành Tŕnh Tâm Linh - Kusinara - |
|
Ngày 28 tháng 3 năm 2010. Chiêm bái Thánh tích Đức Phật nhập Niết-bàn, bảo tháp thờ xá lợi, nền nhà ông thợ rèn Cunda, bảo tháp Ramabhar nơi làm lễ trà
t́. Bài giảng của TT Giác Đẳng về những Thánh tích này nhân chuyến hành hương tu học Ấn Độ ngày 27 tháng 3 năm
2010.
Minh Hạnh chuyển biên bài giảng của TT Giác Đẳng. -- |
|
.Ngày 28 tháng 3 năm 2010. Chúng tôi được báo thức dậy sớm, sau khi dùng điểm tâm tại khách sạn mọi người lên xe bus để đi chiêm bái thánh địa nơi Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn. Chúng tôi đến Thánh Địa trời vẫn c̣n sớm, mọi người xuống xe với đôi chân trần (giày dép đều để lại trên xe bus), từ cổng Thánh Địa tấm lụa màu vàng dài khoảng 6 mét óng ánh dưới ánh nắng ban mai được trải rộng và chúng tôi mọi người tay cầm bên mép của tấm lụa cùng dơ cao, từ xa trông giống như mọi người đang được tấm lụa vàng bao trùm. Từ từ chúng tôi tiến vào đền thờ Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn, khi vào trong đền thờ th́ đă có một phái đoàn hành hương người Thái Lan đang làm lễ gần xong, thấy phái đoàn chúng tôi vào th́ họ đứng lên đi ra trong yên lặng để nhường chỗ cho chúng tôi hành lễ, một cử chỉ đáng tán thán. Chúng tôi dưới |
Thánh tích Đức Phật nhập Niết-bàn |
sự hướng
dẫn của TT Giác Đẳng
tấm lụa màu vàng được
phủ lên kim thân của Đức
Phật. Là một pho tượng
Phật nằm dài 6
mét, với
h́nh dáng Ngài nằm
nghiêng một bên, pho tương
bằng đá
là một trong những
tuyệt tác theo các nhà khảo cổ và
các nhà điêu
khắc, bởi
v́ chúng ta có thể nh́n từ
tất cả các góc độ
trước sau
trên dưới
bên phải bên trái đều
có cảm giác nét mặt
của Đức
Phật như
là khác nhau, và cũng rất là giống
nhau nghĩa là trên phương
diện nghệ thuật đạt
đến một
tŕnh độ
rất cao.
Sau đó tất cả chúng tôi cùng nhất tâm tụng kinh Tam Bảo trong bầu không khí vô cùng xúc động, tụng kinh xong th́ chúng tôi đi nhiễu chung quanh Tôn Tượng Phật ba ṿng. Nhân dịp này TT Giác Đẳng giảng về lịch sử ngày Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn: |
TT Giác Đẳng: Chúng ta đang có mặt tại thánh địa nơi Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn, rất mong rằng quí Phật tử chúng ta hồi tưởng lại những giây phút Đức Phật nhập Niết-bàn. Đứ c Thế Tôn là bậc nhân thiên chi Đạo Sư, đời sống của Đức Thế Tôn có một đời sống rất viên măn, Ngài ra đời là một vị hoàng tử và xuất gia ở trong thời tuổi c̣n trẻ tóc c̣n xanh, Ngài viên tịch năm 80 tuổi ở trong phong thái của một vị Đạo Sư. Ngày cuối cùng Đức Thế Tôn đến đây sau khi thọ thực tại nhà của ông thợ rèn Cunda, và Ngài đă đi bộ cùng đại chúng và Chư Tăng, lúc bấy giờ ở nơi này là công viên có rất nhiều cây sala, Đức Thế Tôn đă lựa chọn một phiến đá giữa hai cây sala và Ngài nằm ở trên phiến đá đó. Ngài dạy Tôn Giả Ananda đi vào trong thành báo cho vua Mallà biết rằng khuya nay vào nửa đêm Như Lai sẽ viên tịch. Tôn Giả Ananda đă trải y tăng già lê lên trên phiến đá và Đức Thế Tôn đă nằm nghiêng người trên miếng đá đó. Từ đó cho đến tối Đức Thế Tôn đă để lại cho chúng ta nhiều lời di huấn rất quan trọng. Ngài đă bảo chư tỳ kheo là: |
Kusinara - Thánh tích Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn |
"Các ngài có điều
ǵ thắc mắc
trước khi
Như Lai viên tịch
hay không?"
Đứ c Thế Tôn hỏi ba lần như vậy chư tỳ kheo đều im lặng. Tôn Giả Ananda bạch với Đức Phật là chư tỳ kheo không có ǵ thắc mắc, Đức Thế Tôn cho biết tất cả chư tỳ kheo th́ ít nhất cũng đạt đến quả vị nhập lưu và Đức Phật Ngài cũng ân cần nói rằng nếu có vị nào ngại th́ có thể nhờ vị tỳ kheo kế bên ḿnh để hỏi, Đức Thế Tôn Ngài cũng nhắc rằng sau khi Ngài viên tịch rồi có những giới luật nhỏ nhặt th́ chư tỳ kheo có thể thay đổi được. Có một vài sự kiện rất đáng nhớ là Tôn Giả Ananda đă hỏi Đức Phật là sau khi Đức Thế Tôn viên tịch rồi th́ chúng con nên thờ phượng di cốt của Đức Thế Tôn như thế nào th́ Đức Phật đă trả lời một câu mà có thể làm cho nhiều người trong chúng ta phải xửng sốt, Ngài nói rằng việc đó để cho người cư sĩ, các con là người xuất gia nên tu tập, Đức Phật không muốn việc thờ xá lợi của Ngài làm bận rộn chư tỳ kheo mà Ngài muốn chư tỳ kheo tu tập hơn là lo việc cúng tế lễ bái, Ngài xem việc đó là việc thích hợp cho cư sĩ làm hơn. Và cũng chính tại nơi thánh địa này trong lúc Đức Thế Tôn đang nằm trên phiến đá th́ một tỳ kheo tên là Tissa đă bỏ ra bên ngoài, một vị tỳ kheo khác đem chuyện đó bạch cho Đức Phật, Đức Phật gọi tỳ kheo Tissa vào và hỏi tại sao thầy Tissa lại vắng mặt, th́ Tissa thưa với Đức Phật: |
"Bạch Đức
Thế Tôn, Ngài sắp
viên tịch mà con tu tập chưa
đến độ
hoàn toàn giải thoát do đó
chúng con tinh tấn để
đạt đến
điều này
khi Đức Thế
Tôn viên tịch."
Đức Phật Ngài khen điều đó, Ngài nói rằng: "Những ai thực hành theo giáo pháp là cúng dường Như Lai một cách cao thượng." Cũng trong ngày đó th́ có một du sĩ ngoại đạo tên là Subhadda đă vào xin được diện kiến Đức Phật, Tôn Giả Ananda không cho và nói là đây không phải lúc để hỏi đạo Đức Phật, nhưng Đức Phật gọi Tôn Giả Ananda và Ngài nói hăy cho Subhada vào. Subhada hỏi Đức Phật một câu hỏi mà Subhadda nghĩ rằng quan trọng nhất trong cuộc đời, vào giờ phút Đức Thế Tôn sắp viên tịch. "Bạch Đức Thế Tôn, có nhiều vị giáo chủ nói ḿnh là người giác ngộ nắm được chân lư, vậy trong số đó ai là người thật sự giác ngộ?"
|
Kusinara - trong đền thờ Đức Phật nhập Niết-bàn |
Th́ Đức
Phật trả lời
rằng:
"Này Subhadda, để câu hỏi đó qua một bên, hăy lắng nghe pháp Như Lai sẽ giảng ." Sau đó Đức Phật giảng về Bát Chánh Đạo và Ngài khẳng định rằng ở trong giáo pháp nào có Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tin Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định th́ ở tại đó có quả chứng đệ nhất Samon, đệ nhị, đệ tam và đệ tứ Samon tức là bốn tầng giải thoát. Và Subhadda đă trở thành vị tỳ kheo cuối cùng được Đức Phật cho xuất gia ở tại đây. Không lâu sau đó th́ Subhadda đă trở thành một vị thánh hoàn toàn giải thoát. |
.Đức Thế
Tôn vào nửa đêm
trăng tṛn
tháng Vesak viên tịch, trước khi Ngài
viên tịch với một lời nhắn
sau cùng:
"Này chư tỳ kheo, tất cả pháp hữu vi là vô thường, các con hăy tinh tấn tu tập." Đó là lời cuối cùng của Đức Phật và sau đó th́ Ngài nhập thiền, sơ, nhị, tam, tứ thiền rồi Ngài trở lại từ tứ thiền, tam thiền, nhị thiền và đến sơ thiền, nhiều lần như vậy cuối cùng th́ Ngài viên tịch Niết-bàn ở trên phiến đá giữa hai cây long thọ. Chúng tôi muốn nhắc lại ba điều mà chúng ta cần nhớ là: 1) Ba tháng trước khi Đức Thế Tôn viên tịch Ngài đă công bố điều đó và Ngài đă lựa chọn thời điểm và địa điểm viên tịch Niết-bàn. Ngày cuối cùng Ngài đến đây Ngài cũng đi vào trong thành Mallà cùng với chư tăng để thông báo với nhà vua nửa đêm Ngài sẽ viên tịch, đó là thần thái của bậc giải thoát hoàn toàn. |
Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn |
2) Điều
thứ hai tại
chính nơi này
Đức Thế
Tôn đă có lời
di huấn tối hậu cho tất cả,
Ngài nói rằng
mọi thứ đều
vô thường,
ở trên đời
này dầu đẹp
dầu xấu, dù chánh dù tà, dù xa dù gần,
dù thô dù tế, dù sang dù hèn tất cả
đều sẽ
thay đổi
theo thời gian,
không có ǵ là trường
cửu, qúi vị
nên tinh tấn tu tập hơn
là bám víu vào điều
ǵ.
3) Điều thứ ba mà Đức Thế Tôn nhắc nhở trước khi Ngài viên tịch, Ngài dạy những ai hành theo chánh pháp là cúng dường Như Lai một cách cao thượng, cho dù rằng chúng ta có cúng dường Phật nhiều đi nữa cũng không bằng hành theo lời dạy của Đức Phật.
|
|
Đức Phật Ngài là bậc đạo sư nói lên sự thật và sự thật đó thường là người ta không hoan hỉ, ví dụ như Ngài nói về sự vô thường, nhưng mà rồi đó là sự thật không thể chối căi. Đối với Đức Phật th́ Ngài cho chúng ta biết rằng ngay cả trái đất mà chúng ta đang sống một ngày nào đó cũng sẽ vô thường biến hoại. Thời Đức Phật Ngài dạy như vậy thật sự không ai có đủ thường thức để hiểu rơ tại sao trái đất cũng sẽ bị hủy hoại, nhưng mà ngày nay chúng ta biết nguyên nhân của nó. Hôm nay chúng ta trở về đây đảnh lễ Đức Phật trong chuyến đi hành hương này, thật sự th́ có rất nhiều điều để nhắc về những giây phút cuối cùng của Đức Phật, nhưng chúng ta chỉ đặc biệt ôn về ba điều đó để nhớ và chúng ta nên nhớ rằng trong tất cả các vị giáo chủ th́ Đức Phật là người có đời sống đẹp nhất, thọ măn viên măn hạnh phúc đầy đủ nhất. Sự ra đời của Ngài là sự ra đời của bậc đại sĩ và sự viên tịch của Ngài là sự giác ngộ an nhiên tự tại. |
Đền thờ Đức Phật nhập Niết Bàn |
Sau phần thuyết giảng
chúng tôi được
hướng dẫn
đến chiêm
bái tháp thờ
Xá Lợi Phật,
tại đây TT
Giác Đẳng đă
giảng chi tiết về ṭa bảo tháp
này.
TT Giác Đẳng: Ṭa bảo tháp có ba lớp, lớp sau cùng là một tháp nhỏ thờ xá lợi của Đức Phật, chính nơi này Đức Thế Tôn đă thị tịch Ngài trút hơi thở sau cùng. Sự phục hưng toà bảo tháp rất đặc biệt và tất cả những thánh tích khác cũng như những công tŕnh trùng hưng đa số là do nha khảo cổ và do Phật tử địa phương, nhưng sự xây dựng tháp này do Ngài Chandramani, Ngài là vị trụ tŕ đă xây dựng lên ngôi chùa Miến điện kế bên. Cách đây 127 năm, vào năm 1883 có vị tăng người Miến Điện sang đây và cùng với một vị tỳ kheo tên Kassapa sindh là con của vị phó vương ở tiểu bang West Bengal, hai vị đó xuất gia về nơi này và hai vị đó ở tại đây. Vào thời đó hoàn toàn không có khách hành hương, cứ một năm như vậy th́ có một hay hai phái đoàn đến từ Miến Điện và khi họ đến đây đem theo phần lớn những thứ như cơm gạo lương khô, sống giữa rừng không có phố xá các Ngài sống như vậy gần 20 năm. Ngày nay ngôi chùa Miến Điện xây dựng bệnh xá, trường trung học và đại học và bảo trợ trung tu thánh địa này.
|
|
Lúc đó tướng Alexander Cunningham đă t́m ra được địa điểm nơi Đức Thế Tôn Ngài viên tịch là nhờ tọa độ chấm từ nơi hoả táng Đức Phật để xác định vị trí này. Nhưng thật ra đến năm 2002 khi trùng tu tháp này th́ người ta mới t́m ra một bản đồng đánh dấu nơi chính thức Đức Thế Tôn Ngài viên tịch tại đây. Nhưng trước đó dựa theo biên sử của Ngài Huyền Trang ghi chú th́ t́m ra nơi này là nơi Đức Phật viên tịch. Khi Đức Phật về đây viên tịch th́ công viên này thuộc thành Malla, công viên là rừng cây sala, một loại cây tương đối cây cao bóng mát. Khi Đức Thế Tôn viên tịch vua Mallà dùng nghi thức Chuyển Luân Thánh Vương để hỏa táng tức là dùng vải quấn gần 100 lớp chung quanh di thể của Đức Phật khi quấn xong th́ để trong quan tài bằng vàng và kim quang đó đă được đưa ra cửa phía đông là nơi làm lễ trà t́, khi đưa sang cửa phía đông đặt trên một dàn gỗ tất cả đều bằng gỗ trầm và kim quang được ǵn giữ trong bảy ngày, đến ngày thứ bảy khi Tôn Giả Maha Kassapa về đảnh lễ Đức Thế Tôn, đảnh lễ xong th́ dàn hỏa không có ai châm lửa mà tự bốc cháy đó là hoả táng di thể Đức Thế Tôn mà chúng ta gọi là lễ trà t́ . |
Bên ngoài đại tháp nơi Đức Phật nhập Niết-bàn |
Tại nơi
này là nơi chúng
ta có thể nói rằng
trong nhiều thế kỷ chư
vị tỳ kheo và Phật tử
về đây
hành hương để
cảm nhận được
không khí tịch mịch khi Đức
Phật Ngài viên tịch, có một điều
mà chúng ta phải nhắc
ở tại đây
rằng Đức
Phật không giống như
bất cứ vị
đạo sư
nào khác, Ngài không ru ngủ, Ngài cũng không
nói với chúng
ta những sự
thật xa vời
mà Ngài nói với
chúng ta những
sự thật rất
dễ chấp nhận. Đó
là mọi thứ
đều thay đổi,
ở trên thế
gian này dù xấu dù đẹp
dù tà dù chánh, dù hay dù dở
tất cả mọi thứ
theo thời gian sẽ
thay đổi không
có cái ǵ đứng
yên một chỗ, và kể cả lần
cuối cùng khi Tôn Giả Ananda thấy Đức
Thế Tôn sắp
viên tịch Ngài rơi
nước mắt
th́ Đức Phật
cũng dạy rằng:
"Như Lai há chẳng nói rằng tất cả mọi pháp là vô thường sao?" |
|
Thành ra Đức Phật Ngài viên tịch là điều chúng ta phải chiêm nghiệm rất nhiều và cũng chính tại nơi này Đức Phật Ngài có nói một điều ngày nay chúng ta đi hành hương phải nhớ đó là: "Trong cuộc đời của chúng ta những ai hành hương và chiêm bái những nơi Như Lai đản sanh, thành đạo và Niết-bàn th́ sau khi măn phần th́ người đó sẽ sanh vào lạc cảnh." Chúng ta về đây hành hương giống như là chúng ta có một thứ bảo hiểm một thứ ǵ đó để sẵn trong ḷng của ḿnh, bất cứ khi nào chúng ta đối diện với cái chết hay đối diện với những nguy hiểm th́ chúng ta cũng nhớ rằng ở trong đời chúng ta đă có một lần có phúc duyên về nơi đại thánh tích liên quan đến cuộc đời của Đức Phật để chiêm bái. . |
Phái đoàn tụng kinh Tam Bảo tại Thánh Tích |
Rời đền thờ Đức Phật nhập Niết-bàn chúng tôi được đưa đến thăm ngôi tháp kỷ niệm nhà ông thợ rèn Cunda, người đă cúng bữa cơm cuối cùng đến Đức Phật. Xe bus dừng lại bên đường của một khu thương mại và từ đó đi vào một con đường hẹp nhỏ đi sâu vào phía sau của khu thương mại để thăm ngôi nhà của ông thợ rèn Cunda mà bây giờ chỉ c̣n là một cái nền tháp kỷ niệm do những người Hồi giáo chiếm đóng và lập đền thờ của đạo Hồi giáo. Tại nơi đây TT Giác Đẳng đă giảng về ư nghĩa bữa cơm cuối cùng mà ông thợ rèn Cunda đă phát tâm cúng dường | |
TT Giác Đẳng: Có ba di chỉ sau cùng mà các nhà khảo cổ từ đó đă xác chứng được vị trí của thánh địa, ba di chỉ đó là: Thứ nhất là nơi Đức Thế Tôn viên tịch Niết-bàn, thứ hai là nơi làm lễ trà t́ tức là nơi hoả táng di thể Đức Phật, thứ ba là nền tháp ngôi nhà của ông thợ rèn Cunda nơi mà Đức Thế Tôn thọ thực bữa cơm cuối cùng. Thật ra đi t́m cả ba nơi này chúng ta mới xác quyết được vị trí của thánh địa, bởi v́ những nơi này được ghi rất rơ ở trong kư sử của Ngài Pháp Hiển và Ngài Huyền Trang. Ngày xưa nơi này là một vườn xoài và ngôi nhà của ông thợ rèn Cunda (Thuần Đà) tọa lạc tại đây. Ngày cuối cùng trước khi Đức Thế Tôn viên tịch, trưa hôm đó Đức Thế Tôn cùng với đại chúng 500 vị tỳ kheo đến đây theo lời mời của ông Cunda, ông Cunda cúng dường thực phẩm đến Đức Phật và Chư Tăng, khi ông cúng dường đến Đức Phật th́ sau khi Đức Phật nhận thực phẩm xong Đức Phật Ngài nói rằng: |
Chụp tại ṭa bảo tháp Ramabhar |
"Món này chỉ có
Như Lai có thể
thọ thực được
và không cúng dường
món này đến
chư t́ kheo và
cũng không cho bất cứ
ai khác mà đem đổ
một nơi nào
đó chỉ có
nước mà
không có côn trùng sinh vật."
Ông thợ rèn Cunda đem đổ vào trong nước th́ nước bốc khói lên. Có ba điều tranh luận liên quan đến bữa ăn cuối cùng của Đức Phật. 1) Thứ nhất có nhiều người cho rằng do bữa ăn của ông thợ rèn Cunda mà Đức Thế Tôn Ngài bị trúng độc và Ngài viên tịch. Thật ra không phải như vậy, theo trong kinh cho chúng ta biết rằng từ Vương Xá đến Vesali, trên đường đi Đức Thế Tôn đă cho biết là Ngài sẽ viên tịch trong ba tháng nữa tại Kusinara, thời điểm và địa điểm đă được Đức Phật Ngài lựa chọn, không có lư do nào dựa trên kinh điển để chúng ta nói rằng Đức Phật bị trúng thực hay ngộ thực mà viên tịch, mặc dầu ngày nay người ta nh́n với một cách khác. Dĩ nhiên thực phẩm th́ đôi khi chúng ta dùng vào thích hợp hay không thích hợp, đôi lúc loài người cúng dường thực phẩm cho Đức Phật có khi Chư Thiên cũng cúng dường và để vào thức ăn khất thực, và thức ăn đó có thức ăn của loài người và của Chư Thiên hỗn hợp với nhau do đó người thường không có khả năng tiêu hóa mà chỉ có Đức Phật tiêu hóa được thôi, và trong những trường hợp Chư Thiên cúng dường thực phẩm vào trong bát của Đức Thế Tôn th́ Đức Thế Tôn dặn thức ăn dư gọi là tàn thực không thể cho người thường dùng được v́ họ không có khả năng tiêu hóa.
|
|
2) Tranh luận thứ hai người ta nói về bữa cơm cuối cùng của Đức Phật là: Trong kinh ghi lại ông thợ rèn Cunda cúng dường Đức Phật một món gọi là sukara-maddava (nấm rừng). Món sùkasamaddhara ở trong tiếng Phạn có hai nghĩa; tên của một loài heo rừng và nghĩa thứ hai là loại nấm rất thơm. Tỉnh Tứ Xuyên bên Trung Quốc và tỉnh Marseille bên Pháp có một loại nấm, khi người ta đi t́m nấm họ dẫn theo một con heo bị khớp mơm lại và nấm này rất thơm, rất đặc biệt, con heo đánh hơi nấm rất giỏi hễ con heo đi đến nơi nào mà nó chúi vào th́ họ biết nơi đó có nấm, họ hái nấm đó về, loại nấm đó họ gọi là nấm heo. Có một lần chúng tôi qua Pháp, Phật tử cúng dường một lần trong nhà hàng họ chỉ nấu có ba tai nấm mà phải trả 150 Euro. |
TT Giác Đẳng đang giảng về tháp kỷ niệm nhà ông thợ rèn Cunda |
Bây giờ người ta hỏi Đức Thế Tôn đă thọ thực bữa cơm cuối cùng bằng thức ăn ǵ, bằng loại nấm đó hay bằng thịt heo rừng? Đây là một vấn đề tranh luận rất nhiều ở các quốc gia Phật giáo. Tại Ấn Độ dân chúng theo đạo Bàlamôn chiếm 80% , họ ăn chay, và cái ăn chay của người Ấn Độ được chia ra làm hai; vegetarian và vegan. Vegetarian là những người ăn chay giống như ở Việt Nam, họ ăn được sữa và trứng, c̣n vegan th́ tuyệt đối không ăn sữa trứng và những ǵ liên quan đến động vật. Người Ấn Độ đạo Balamon ăn chay rất gắt thành ra việc ăn chay là cơ sở của Balamon giáo. Theo trong kinh điển khi Đức Phật ra đời mà chúng ta đọc trong giới luật và Chư Tăng th́ Đức Phật và Chư Tăng sống theo h́nh thức gọi là đi khất thực có nghĩa là buổi sáng Đức Phật mang b́nh bát đi vào trong làng, cái ǵ đă nấu chín sẵn từ trong nhà th́ người dân làng lấy thức ăn đó đặt vào trong b́nh bát của Đức Phật để Đức Phật thọ thực, Ngài không yêu cầu thực phẩm này hoặc thực phẩm kia, miễn là nó đă được nấu chín, ở trong kinh gọi là tam tịnh nhục, do đó quan niệm về ăn chay thật ra trong giới luật của Phật Giáo Nam Tông và Bắc Tông th́ nếu qúi vị nh́n vào bản đồ Phật giáo ngày nay th́ chỉ có Việt Nam và Trung Hoa xem vấn đề ăn chay là vấn đề tối trọng, nhưng mà hỏi Nhật Bản, Mông Cổ, Tây Tạng, Thái Lan, Tích Lan, Miến Điện v.v... th́ đó là tùy duyên thôi, gọi là tam tịnh nhục. Th́ vấn đề Đức Phật món ăn đó là món ăn ǵ th́ thật sự không phải là vấn đề bàn căi ở những xứ Phật Giáo Nam Tông, Tây Tạng, Nhật Bản, nhưng mà nó là vấn đề tranh luận rất lớn tại Việt Nam. Th́ thứ nhất là món ăn đó là nấu Sùkura hay là một loại thịt rừng th́ thật sự nó không quan trọng với nhiều người, nhưng với một vài nơi khác th́ nó rất là quan trọng. | |
3) Điều thứ ba, có một sự tranh luận ở tại đây là; khi ông Cunda cúng dường cho Đức Phật và Đức Phật thọ thực xong Ngài đi tới rừng cây long thọ của ḍng tiểu vương Mallà và tại đây Ngài để lại một lời nói là: "Này Ananda, có thể sau này có người nói rằng do Đức Thế Tôn thọ thực bữa cơm cuối cùng tại nhà ông Cunda và v́ lư do đó mà Ngài viên tịch Niết-bàn th́ hăy nói với Cunda rằng có hai bữa cơm gọi là đại phước trong đời người cúng dường được nhiều phước báu đó là bữa cơm trước khi Như Lai thành đạo và bữa cơm trước khi Như Lai nhập Niết-bàn." Bữa cơm trước khi Như Lai thành đạo là bữa cơm do nàng Sujàtà dâng sau đó Ngài thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, bữa cơm trước khi viên tịch là bữa cơm của ông thợ rèn Cunda là bữa cơm đầy phước đức. Đó là di ngôn của Đức Phật để lại khi Ngài nghĩ đến ông Cunda. Do vậy sự tranh luận này là tranh luận ở bên ngoài nhưng riêng đối với người Phật tử có tín tâm th́ bữa cơm cuối cùng là bữa cơm cuối cùng mà thôi. Có sanh th́ có tử, có sống th́ có chết. Đức Phật đă trụ thế |
Tại toà bảo tháp Ramabhar |
45 năm
Ngài viên tịch. không thể nói là tại
ông Cunda cúng dường
cơm mà Đức
Thế Tôn Ngài viên tịch, do vậy
ngày hôm nay đứng
trên nền nhà của ông Cunda với
nền đại
tháp kỷ niệm này chúng tôi muốn nhắc
lại ba điều
này, ba điều
này thật sự
không quan trọng với
nhiều người
trong chúng ta nhưng
nó thật sự
tranh luận của nhiều nhà sử
học th́ chúng ta cứ
nhắc lại
đây để
chúng ta nhớ.
Sau khi Đức Thế Tôn viên tịch rồi th́ thật ra ngôi tháp này cũng như đa số những ngôi tháp khác được cất hay được trùng tu thời vua A Dục theo chúng ta được biết th́ ngôi tháp này được cất ngay sau khi Đức Phật viên tịch không lâu, ngôi tháp cất trên nền nhà của ông Cunda để đánh dấu đây là nơi Đức Thế Tôn đă thọ thực bữa cơm cùng. Rời nền tháp kỷ niệm nhà ông thợ rèn Cunda, chúng tôi được đưa đến chiêm bái toà bảo tháp Ramabhar.
|
|
TT Giác Đẳng: Tháp Ramabhar là toà tháp đánh dấu nơi làm lễ trà t́ của Đức Phật. Chữ trà t́ lấy từ chữ Phạn để nói lên sự tôn kính, trà t́ có nghĩa là hoả táng, nhưng chỉ hoả táng riêng đặc biệt cho Đức Phật th́ chúng ta gọi là lễ trà t́. Ngày hôm nay chữ này đă bị lạm dụng rất nhiều, đôi khi một vị cư sĩ hỏa táng người ta cũng gọi là lễ trà t́, cũng giống như người ta dùng chữ xá lợi, nhưng thật sự những chữ dùng như vậy không thích hợp, chúng ta chỉ dùng chữ đó cho bậc cao trọng mà thôi. Ngôn ngữ cũng có sự lạm phát bởi thời gian. Sau khi Đức Thế Tôn viên tịch tại rừng long thọ, di thể của Ngài được tẩm niệm theo cách của vị Chuyển Luân Vương là dùng vải màu trắng quấn một trăm lớp sau đó đặt trong một kim quang bằng vàng và đă đưa đến tháp Ramabhar đặt trên dàn hỏa hoàn toàn bằng gỗ trầm, tất cả gỗ trầm trong xứ được gom về đây, di thể của Ngài đă quàng tại đây 7 ngày và Tôn Giả Maha kassapa đă về nơi này đảnh lễ Đức Thế Tôn, sau đó th́ lửa đă tự nhiên bốc cháy từ trong di thể của Đức Thế Tôn. |
Ṭa đại bảo tháp Ramabhar |
Sau khi lửa
cháy tắt hết
di thể của Đức
Phật để
lại sáu loại xá lợi
chia thành hai phần; phần đầu
tiên là tinh thể, tinh thể là những
phần xá lợi
nhỏ như hạt
mè hạt cải hay hạt thóc, giống
như chúng ta đă
được
chiêm bái xá lợi
lớn bằng
hạt thóc tại Lumbini. Mỗi loại như vậy
có một màu khác nhau và cũng có ba loại
khác là xương
trán, xương
vai và răng nhọn.
Đức Thế
Tôn để lại
bốn xá lợi
răng, hai xá lợi
răng ngày nay
chúng ta được
biết th́ một răng
thờ tại
Kandy là cố đô
của Tích Lan, một xá lợi
Phật nha khác thờ
tại xứ
Gandhara, xứ
Afghanistan, c̣n hai răng
xá lợi khác
th́ một thờ
ở Long Cung
và một thờ
ở Cung Trời
Đao Lợi
và trong 6 xá lợi
được
chia làm hai phần đó
th́ có một câu chuyện mà chúng ta phải
nhắc lại
lịch sử.
Chúng tôi nhắc lại với qúi vị phật tử, phía bắc này là rặng Hi Mă Lạp Sơn, nằm dưới chân Hi Mă Lạp Sơn có một tiểu quốc Sakya là quê hương của Đức Phật, tiểu quốc thứ hai là xứ Koliya là bên ngoại của Đức Phật, tiểu quốc thứ ba là Mallà và thứ tư là xứ Licchavri. Nằm dưới chân rặng Hi Mă Lạp Sơn là bốn tiểu quốc nhỏ, Đức Thế Tôn đă lựa chọn Kusinara làm nơi viên tịch, trên đường Ngài đến đây th́ Tôn Giả Ananda đă hỏi: "Bạch Đức Thế Tôn tại sao Đức Thế Tôn không viên tịch tại những thành phố lớn như Xá Vệ, như Vương Xá, tại sao Đức Thế Tôn lại lựa chọn một làng của một vương quốc nhỏ như Mallà để viên tịch, đó là câu hỏi của Ananda và cũng là câu hỏi của chúng ta ngày nay. Đức Thế Tôn Ngài đă cho Tôn Giả Ananda nhiều lư do.
|
1) Thứ nhất là Ngài muốn cho thế gian này một bài học rất quan trọng, Ngài cho biết rằng Kusinara ngày xưa đă là kinh đô của vị Chuyển Luân Thánh Vương tên là Thiện Chiến, cũng như Patna ngày nay là một thành phố nhỏ tuy là thủ phủ của tỉnh bang Bihar chúng ta không quên rằng Patna ngày xưa là một trung tâm quyền lực cai trị của xứ Ấn Độ mênh mông là kinh đô của vua A Dục. Đức Thế Tôn điều đó Ngài nói với Ananda rằng thành phố gọi là lớn và nhỏ thật sự nó không có ǵ nói, thành phố này ngày xưa là kinh đô của xứ Mallà mà ngày nay chúng ta về chỉ là một nơi hẻo lánh cho chúng ta thấy rằng ở trên thế gian này không có ǵ tuyệt đối cả, như Angkor Wat ngày xưa là một kinh đô lớn, ngày nay nó chỉ là nơi hoang vu ở xứ Xiêm Riệp mà thôi.
|
Chùa Thái Lan tại Kusinara |
2) Một điều thứ hai về sau này chúng ta xác chứng được đó là nếu Đức Thế Tôn viên tịch tại quốc gia lớn như Kiều Tát La hay Ma Kiệt Đà th́ sau khi Đức Thế Tôn viên tịch những xứ đó là xứ có binh hùng tướng mạnh họ không dễ có thỏa hiệp về phân chia xá lợi Phật, những xứ khác sẽ liên minh với nhau trở thành một cuộc chiến đẫm máu. Chính tại nơi này sau khi Đức Thế Tôn viên tịch th́ có tất cả bảy quốc gia gửi hùng binh đến đây nói rằng Đức Thế Tôn là bậc Đạo Sư và họ có phần để chia xá lợi của Đức Phật. Sau khi Đức Thế Tôn viên tịch vua Mallà buồn nhiều ngày, khi những vị tướng lănh về báo cho nhà vua biết rằng có bảy quốc gia đến đây đ̣i chia xá lợi, nhà vua khẳng định một điều rằng nhà vua không thể chia xá lợi Đức Phật bởi v́ họ cũng có binh hùng tướng mạnh tuy là một tiểu quốc và một điều chắc chắn là sẽ có những trận chiến rất kinh khiếp sẽ xảy ra ở chung quanh đây. Khi ấy có một vị Bà la môn tên là Dona đă đến gặp vua Mallà, sau đó nhà vua đă cho gặp tất cả bảy vị đại diện của bảy quốc gia kia kể cả đại diện của vua Mallà là tám vị đại diện cho tám quốc gia họp mặt, Bà la môn Dona chắp tay nói rằng: |
"Khi Đức
Thế Tôn c̣n trụ thế Ngài là bậc
đạo sư,
Ngài đề
cao ḷng từ
bi, Ngài không bao giờ
muốn bấc cứ
ai nhân danh Ngài làm cho một giọt máu
hay nước
mắt của
chúng sanh rơi
xuống, ngày nay Đức
Thế Tôn viên tịch rồi th́ chúng ta
thương kính
Đức Phật
mà làm cho máu phải đổ
th́ thật sự
là một nghĩa cử
không xứng đáng.
Bây giờ Đức
Thế Tôn đă
viên tịch rồi th́ tại sao chúng ta
không nghĩ đến
Ngài và chia xá lợi
này thành tám phần đều,
mỗi một quốc gia đều
có phần xá lợi
Phật."
Tám vị vua của tám quốc gia đều đồng ư điều đó, cuối cùng tại đây người ta đă có một thoả hiệp hoà b́nh là xá lợi của Đức Phật được phân chia ra tám phần cho tám quốc gia. Sau khi chia xong th́ tám vị nhất là vua Mallà rất hoan hỉ, mặt dầu xá lợi không được giữ hết chỉ được một phần nhưng tránh được những cuộc ác chiến do vậy nhà vua đă làm một nghĩa cử là lấy thố đựng bằng vàng đựng di cốt Đức Phật sau lễ trà t́ và sau khi chia xong xá lợi, th́ nhà vua đă lấy thố bằng vàng đó tặng cho Bà la môn Dona là thưởng công cho Balamon Dona đă đứng ra làm người trung gian để hoà giải tất cả tranh chấp. Đó là một câu chuyện liên quan đến hoà b́nh. |
Phái đoàn chụp tại chùa Thái Lan - Kusinara |
Ṭa bảo tháp thờ
xá lợi Phật
này được
xây dựng bởi
vua A Dục để
đánh dấu
nơi làm lễ
trà t́ của Đức
Phật. Khi các nhà khảo cổ khai quật
th́ chỉ là cái nền của tháp thôi,
và nay đă được
trùng tu lại.
Rời Thánh địa tháp Ramabhar chúng tôi trở về khách sạn dùng cơm trưa và nghỉ ngơi, v́ trời quá nóng nên 4:30 chiều chúng tôi mới được chở đi thăm các ngôi chùa tại Kusinara. Tại Kusinara có rất nhiều ngôi chùa Phật Giáo của các quốc gia Phật Giáo được xây dựng tại đây, mỗi ngôi chùa có điểm thu hút riêng, tuy nhiên ngôi chùa được du khách thăm viếng nhiều nhất và là nơi đẹp nhất tại Kushinagar là ngôi chùa Thái Lan. Được biết đến như một trong những ngôi chùa nổi tiếng nhất tại Ấn Độ, ngôi chùa thu hút khách du lịch từ khắp nơi trên thế giới. Chùa được xây dựng để tôn vinh Thánh lễ vàng kỷ niệm ngày lên ngôi của vua Bhumibol, vua Thái Lan. Ẩn ḿnh trong nhiều mẫu đất của cây xanh, bao gồm một khu vực rất lớn và quang cảnh đẹp và thanh b́nh.. |
TT Giác Đẳng: Chùa Thái Lan là một ngôi chùa của Hoàng Gia, khi chúng ta gọi là chùa Hoàng Gia th́ khác với ở VN, ở VN khi chúng ta gọi là chùa Sắc Tứ th́ chỉ là chùa Sắc Tứ thôi, nhưng Thái Lan th́ chùa hoàng gia là chùa được hoàng gia Thái Lan cúng dường ngân qũi, tất cả các chư tăng làm việc tại đây là do hội đồng Tăng Già bổ nhiệm, như các vị ở tại đây đều dùng pass port đen tức là thông hành ngoại giao, các vị qua đây để đại diện cho Hoàng Gia Thái. Trước mắt chúng ta có một ngôi tháp như chúng tôi có một lần đề cập với qúi vị là ngôi tháp họ lấy từ sự gợi ư của ngọn núi như rặng Hi Mă Lạp Sơn nhưng riêng về ngôi tháp này th́ kiểu chúng ta thấy ở Nepal lấy từ kiểu tháp của Tu Di sơn. Tu Di sơn tức là ở dưới là ngọn núi có chân từ từ lên đỉnh núi là cung trời đao lợi của Thiên Chủ Đế Thích do đó tháp xây dựng lên trên. Chung quanh có bốn mặt mỗi mặt th́ có bốn tượng Phật với kiểu khác nhau, như Đức Phật đang thuyết pháp, Đức Phật trong thế ban phúc, và những ấn quyết mudra của từng pho tượng độc đáo. Ở trong tháp có xá lợi do chính phủ Ấn Độ chính thức cúng dường cho Hoàng Gia Thái được tôn thờ tại đây. Hàng năm vào tháng giêng họ có một cái lễ cung nghinh xá lợi đi chung quanh thánh địa này vào tháng Hai. |
TT Giác Đẳng và Ni Sư Trí Thuận cùng các Phật tử chùa Pháp Luân tại chùa Linh Sơn |
Ngôi chùa kiểu mẫu của
Thái Lan phần lớn
có chánh điện
là nơi thờ
Phật làm rất đẹp
ở trên mái có
nhiều lớp
gọi là trùng cát, trùng cát nghĩa là có
nhiều mái trồng với
nhau. Trong kinh nói rằng
ở thiên cung
lâu đài của
chư thiên thường
xây dựng theo
mái nhiều tầng gọi là trùng cát.
Chánh điện
thấy rộng nhưng
bên trong chánh điện
rất nhỏ chỉ đủ
khoản 50 vị ngồi trong đó
lễ Phật, và những
sinh hoạt lớn
th́ ở phía sau
gọi là sala tức
là hội trường.
Những chùa VN
thường xây
dựng chánh điện
rất lớn và
chánh điện
chỉ để
làm lễ thôi, chùa Thái Lan đẹp
nguy nga nhưng bên
trong th́ nhỏ. Chùa có cư
xá cho khách hành hương
và có trường
thiền, có ngôi nhà khánh tiết. V́ là
ngôi chùa Hoàng Gia thành ra năm
nào cũng vậy Phật tử
con cháu vua Thái Lan qua Bồ Đề
Đạo Tràng
xuất gia để
cầu thọ cho nhà vua nên những
ngôi chùa Hoàng Gia phải có pḥng khánh tiết
để đón
tiếp những
hoàng thân quốc thích của Hoàng Gia hay những
viên chức cao cấp
qua đây hành hương.
Nói chung tại Thái Lan th́ tăng
già hoàng gia và dân chúng sống như
kiềng ba chân do vậy trong một ngôi
chùa họ đâu
ra đó chứ
không phải muốn làm thế nào th́ làm
như người
Việt Nam.
|
|
Sau chùa Thái Lan chúng tôi ghé thăm
chùa Linh Sơn,
một ngôi chùa Việt Nam và được
TT Giác Đẳng
nói về lịch sử
của chùa Linh Sơn,
khá thú vị.
TT Giác Đẳng: Trước khi chúng ta vào trong chùa Linh Sơn th́ xin nói đến một sự kiện rất t́nh cờ liên quan đến thánh tích Phật giáo cũng là liên quan đến vận mệnh của đất nước VN chúng ta. Trước năm 1975 đa số các thánh tích tại đây thường là sự đi lại rất khó khăn, những người đến thăm viếng thánh tích này thường tương đối có tiền và họ đi trong những dịp rất đặc biệt và số khách đi hành hương không tấp nập như bây giờ. Nói thẳng ra th́ vào những năm đầu cuối thập niên 80 khi chúng tôi đặt chân xuống đây lần đầu tiên không có nhiều khách sạn như bây giờ và lư do người tị nạn Đông Dương đổ sang bên các nước Âu Mỹ và số khách hành hương về đây và đồng thời cộng với năm 1975 nền kinh tế thế giới mở ra và vấn đề công dân của các quốc gia Thái Lan, Nhật Bản v.v... qua đây càng lúc càng nhiều thêm, do đó có nhiều phương tiện. |
Chụp tại chùa Tây Tạng |
Trước
năm 75, có trường
hợp là nhiều
vị đại
sư nhiều
vị cao tăng
sang đây hành
hương và
thường là
có một vài Phật tử
rất giàu có đi
chung và những
vị này phát tâm để
cúng dường
kiến tạo một ngôi chùa. Ví dụ
như vị
danh tăng người
Trung Hoa là một vị pháp sư
người Quảng
Đông sang đây
phát tâm xây dựng
ngôi chùa này, nhưng
khi xây dựng
ngôi chùa th́ Ngài chỉ ở
lại một thời
gian để
kiến tạo cho xong ngôi chùa và khi kiến
tạo xong th́ Ngài về lại Trung Hoa để
lo Phật sự
nơi đó
Ngài có chùa chiền và có cơ
sở, do vậy
ngôi chùa này không ai chăm
sóc. Hiện bây giờ
tại Xá Vệ cũng có một ngôi
chùa Trung Hoa như
vậy và một vài nơi
khác như tại
Bồ Đề
Đạo Tràng
những ngôi
chùa Nhật th́ không có nhà sư
Nhật và Phật tử
Nhật để
ǵn giữ và họ
phải để
Chư Tăng
người
Bangladesh ǵn giữ,
việc đó
là một việc rất b́nh thường
xảy ra tại các thánh địa.
Ngày nay th́ tương
đối số
người qua
đây và ở
lại ǵn giữ
thánh địa
nhiều. Thật ra ở
Ấn Độ
khó hành đạo,
có nhiều Phật tử
về Bồ Đề
Đạo Tràng
cảm thấy rất thích và ở
lại tu tập nhưng
mùa hè rất nóng.
Trở lại ngôi chùa Linh Sơn có lịch sử là chùa Trung Hoa và ngày nay ở trong sách vẫn để là Chinese Buddhist Temple nhưng v́ một thời gian không có người ǵn giữ và những người Phật tử của vị đại sư Trung Hoa đă khẩn khoản mời Ni Sư Pháp Đăng là đệ tử của HT Giới Nghiêm trụ tŕ, tới năm 80 th́ vị này di dân sang Hoa Kỳ nhưng lại có trách nhiệm với ngôi chùa nên nhân HT Huyền Vi dẫn phái đoàn sang đây th́ Ni Sư khẩn khoản để xin được cúng lại và nhờ HT lo giùm ngôi chùa này, HT đă nhận lời và từ đó chùa Trung Hoa biến thành chùa Linh Sơn. HT Huyền Vi trong hệ thống Linh Sơn có rất nhiều tăng sĩ và HT đă giao cho một số vị và vị đương lo cho chùa hiện nay là Ni Sư Trí Thuận. Lâu lâu Ni Sư Trí Thuận có về Houston để kêu gọi gây qũi. Ni Sư Trí Thuận có phương pháp làm việc khác hơn với những vị khác là Ni Sư thấy ở đây không thể hoằng pháp được nhiều do đó Ni Sư nuôi cô nhi là những trẻ em người Ấn Độ không cha mẹ hoặc trẻ em nghèo đến cho ăn và cho ở, và có trường học của chùa Linh Sơn. Chùa có cất phước xá để cho khách hành hương hàng năm, thường trong một phước xá như vậy có sáu giường và một rest rơom, trước kia chúng tôi có ở đây cũng sạch sẽ nhưng không tiện nghi như ở khách sạn. Ni Sư Trí Thuận thành lập một tiểu cảnh tại khuôn viên của chùa như đản sanh, thành đạo, chuyển pháp luân, niết bàn và khổ hạnh, bốn cảnh ở giữa có một toà tháp với ư để Phật tử về hành hương khắp nơi rồi nh́n thấy những cảnh này th́ nhớ. Sau phần thuyết giảng về lịch sử chùa Linh Sơn, TT hướng dẫn chúng tôi và chánh điện chùa để lễ Phật, sau đó chúng tôi được vị tri khách hướng dẫn đến hội trường. Tại hội trường chúng tôi gặp Ni Sư Trí Thuận, Ni Sư vui vẻ tiếp đón chúng tôi với vẻ từ ḥa thân thiện. Xin nhắc lại khi vừa đến khuôn viên chùa Linh Sơn chúng tôi gặp một số các em cô nhi đang sinh hoạt, mặc dù là người Ấn Độ nhưng Ni Sư cho các em mặc quần áo nhà chùa màu lam, gọi là áo bà vải, trông rất dễ thương, chúng tôi nghe các em tụng kinh tiếng Việt, tưởng đâu các em là người Việt, một vài người trong phái đoàn đă nói chuyện bằng tiếng Việt với các em, khi ấy mới biết là các em không biết nói tiếng Việt. Do ấn tượng đầu tiên khi bước vào khuôn viên chùa đó mà chúng tôi một số người đă tự động đứng lên cúng dường tịnh tài để Ni Sư lo cho các em cô nhi (mặc dầu trước khi vào chùa chúng tôi đă đóng góp hùn phước để TT Giác Đẳng cúng dường cho chùa Linh Sơn rồi.) Chiều nay chúng tôi chỉ có thể đi thăm viếng ba ngôi chùa, một là chùa Thái Lan, hai là chùa Linh Sơ và ba là chùa Tây Tạngn th́ trời đă tối v́ tại mỗi chùa chúng tôi đă có thời gian rất lâu để lễ Phật và đi ngắm cảnh chùa cho nên hết giờ và chúng tôi phải trở về khách sạn.
|