Hành Tŕnh Tâm Linh - Những Người Có Công Trong Việc Bảo Tồn Văn Hóa Phật Giáo Tại Ấn Độ |
|
Bài giảng của TT Giác Đẳng về những người có công trong việc bảo tồn văn hóa Phật Giáo nhân chuyến hành hương tu học Ấn Độ ngày 27 tháng 3 năm
2010.
Minh Hạnh chuyển biên bài giảng của TT Giác Đẳng. Ngày 27 tháng 3 năm 2010. Chúng tôi rời khách sạn và được đưa ra phi trường để bay về Lumbini. V́ chuyến bay bị tŕ hoăn nên chúng tôi về đến Lumbini th́ đă là buổi chiều, rồi từ phi trường lấy xe bus đi Kusinara, khi đến Kusinara th́ trời đă xẩm tối do vậy chương tŕnh chiêm bái các thánh tích rời lại vào ngày hôm sau. Trên đường đi TT Giác Đẳng đă giảng về các vị có công trong việc t́m ra các thánh tích. -- |
|
Nằm ở dưới chân núi Hi Mă Lạp Sơn, phía Tây Bắc là quê hương của Đức Phật gịng họ Thích Ca-Sakya bên cạnh đó là xứ Koliya và tiếp giáp với Koliya là xứ Malla, sau cùng là xứ Licchavi. Xứ Malla là một trong bốn quốc gia nằm dưới chân núi Hi Mă Lạp Sơn. Diện tích của bốn quốc gia thật ra bao phủ phần lớn ở Nepal, Bhutan và Sikkim ngày nay, nhưng riêng xứ Malla là nơi Đức Phật viên tịch có kinh đô là Kusinara tức là Câu Thi Na, nơi mà chúng ta sắp đến. Đức Phật khác với bất cứ vị đạo sư hay giáo chủ nào khác là Ngài sống rất thọ, là bậc đại phúc đại đức, Ngài sống viên măn kiếp người. Ngài sanh ra là vị Hoàng Tử rời bỏ cung vàng điện ngọc ở trong lúc tuổi c̣n trẻ và Ngài viên tịch năm 80 tuổi trong một trạng thái phi thường. |
Himalayas - Nepal |
Ba tháng trước
khi Đức
Thế Tôn viên tịch th́ Ngài đă
thông báo cho chư
tỳ kheo biết là Ngài sẽ viên tịch
trong ba tháng nữa,
và Ngài đă lựa
chọn ngày giờ
và địa điểm
địa dư
để viên
tịch. Ngài khởi
hành từ
Rajagaha rồi sang Vesali rồi Ngài lên xứ
Pava rồi cuối cùng Ngài đến
Kusinara nơi mà
Đức Thế
Tôn viên tịch. Những
giai thoại những
chi tiết về những
tháng ngày trước
khi Đức
Thế Tôn viên tịch được
ghi lại rất rơ trong kinh Đại
Bát Niết Bàn trong Trường
Bộ Kinh, nếu chúng ta ôn lại từng
chặng đó
th́ chúng ta thấy rằng
Đức Thế
Tôn Ngài đă
thật sự
làm rất nhiều việc cho thế gian
này.
|
Tại Vesali khi Đức
Thế Tôn Ngài xác định
ba tháng nữa
Ngài sẽ viên tịch th́ Tôn Giả Ananda
không cầm được
nước mắt
và cảm thấy chấn động
mănh liệt và thỉnh Đức
Thế Tôn tiếp tục trụ thế, Đức
Thế Tôn đă
nói với Tôn Giả
Ananda rằng những
ǵ mà Ngài cần làm cho những
đệ tử
th́ Đức Thế
Tôn Ngài đă
làm rồi. Sau đó
Ngài lên đường
đi, ở
trên đường
đi Ngài đă
hướng dẫn
giảng giải rất nhiều và thuyết
pháp thoại cho chư
tỳ kheo.
Ngày nay chúng ta về Kusinara vẫn c̣n rất nhiều chứng tích quan trọng liên quan đến sự ra đi của Đức Phật: ở trong đó có đại tháp kỷ niệm nơi Đức Thế Tôn đă thọ thực bữa cơm cuối cùng tức là tại nhà ông thợ rèn Cunda, cũng có chỗ kỷ niệm nơi Đức Thế Tôn đă sai Tôn Giả Ananda xuống gịng sông múc nước cho Ngài, và cũng có nền tháp kỷ niệm nơi kim thân của Đức Thế Tôn được hoả táng tức là nơi làm lễ trà t́, và dĩ nhiên ngay tại nơi Đức Thế Tôn Ngài viên tịch, chúng ta có chừng một ngày để thăm viếng tất cả những nơi này từ sáng đến chiều. |
Kusinara |
Sau khi Đức Thế Tôn Ngài viên tịch không lâu khoảng chừng hơn 100 năm th́ triều đại Maurya từ một đế quốc nhỏ tức là một vương quốc Ma Kiệt Đà mở mang rộng lớn trở thành một đế quốc và có biên cương lớn nhất Ấn Độ từ xưa cho tới bây giờ, triều đại đó chúng ta gọi là Maurya tức là triều đại Khổng Tước, Maurya tức là bồ câu, triều đại Khổng Tước mà vị vua thống nhất được Ấn Độ là vua A Dục. Có một điểm hẹn kỳ lạ của lịch sử là khi Đức Thế Tôn Ngài ra đời tại Ấn Độ th́ vài ba mươi năm sau đó tại Trung Hoa Khổng Tử cũng ra đời, khi Tần Thủy Hoàng thống nhất đất nước Trung Quốc th́ trước đó không lâu khoảng một hai thế kỷ th́ tại Ấn Độ vua A Dục cũng đă thống nhất Ấn Độ. Sự thống nhất đất nước Ấn Độ tạo ra một biên giới rộng lớn chưa từng có từ trước kia và kể cả bây giờ. Nước Ấn Độ thời vua A Dục bao gồm Pakistan, Bangladesh, Bhutan, Nepal, và Afghanistan mà chúng ta được biết ngày nay. |
Sự thống nhất đất nước của hoàng đế A Dục đă tạo nên một sự khác thường mà ngày nay các nhà lịch sử gọi là sự xóa sổ hàng loại những trung tâm quyền lực của miền Trung Ấn, sự xóa sổ hàng loại đó kể cả ví dụ như thành Xá Vệ nguyên là kinh đô của nước Kosala hay là Kusinara kinh đô của xứ Malla, hoặc giả là Vesali là kinh đô của xứ Licchavi. Tất cả những nơi này đều dần dà mất đi tánh cách quan trọng và rơi vào chỗ hoang phế. Dân chúng lại thiên di về những chung tâm quyền lực mới, ngày xưa th́ kinh tế tụ chung quanh những trung tâm quyền lực v́ lư do là chỉ có binh hùng tướng mạnh mới bảo vệ được tài sản của họ, do đó những người giàu có th́ họ thường về những vùng kinh đô để lập nghiệp hơn là ở những thị trấn mà nền pháp trị không có binh hùng tướng mạnh để bảo vệ để trị an. Rất dễ hiểu là thời xưa người ta cần một sự bảo đảm tương đối là tốt hơn bây giờ rất nhiều bởi v́ bây giờ có khi ở xa mà có điện thoại có xe cộ, thời xưa nếu có chuyện ǵ xảy ra đi cầu cứu rất là lâu. Do vậy sự thay đổi bản đồ chính trị ở dưới thời đại của vua A Dục nó để lại hệ quả hàng loại những kinh đô trước kia mà đă được ghi đậm nét ở trong lịch sử của Đạo Phật dần dà trở thành những |
Kusinara |
thị
trấn nhỏ và mất đi
tánh cách quan trọng và hầu hết phần
lớn lại trở
thành những di
tích cổ bởi
v́ dân cư dần
dà thưa thớt.
Dân cư thưa
thớt th́ chư
tăng cũng không
ở bởi
v́ những vị
tăng sĩ sống
với quần
chúng, do vậy những
ngôi chùa vốn rất nổi tiếng vào
thời Đức
Phật c̣n tại thế nhưng
sau đó nhiều
trăm năm
th́ dần dà không c̣n giữ
được vị
thế quan trọng như
ngày xưa nữa.
Chúng tôi muốn nhắc qúi Phật tử là làm thế nào mà chúng ta đi t́m được những chứng tích của Phật giáo. Trước nhất là sự ra đời của Đức Phật được minh chứng ở trong hai sự tồn tại rất quan trọng đó là sự tồn tại của Giáo Pháp và sự tồn tại của Tăng Già, tức là của Giáo Đoàn Tăng Lữ. Giáo Pháp không phải chỉ ghi lại lời dạy của Đức Phật mà c̣n ghi chép rất nhiều lịch sử, và những ǵ được ghi lại liên quan đến nhân danh địa danh ở trong Tam Tạng kinh điển Pali ngày nay không mảy may sai trại đối với cái ǵ mà người ta t́m ra được, những di tích lịch sử đă là một chứng tích đă xác định sự giá trị không thể phủ nhận được của Tam Tạng Pali, và Tam Tạng Pali đă là một minh họa rất rơ ràng khiến cho các nhà khảo cổ đỡ phải mất công t́m kiếm, và dĩ nhiên chúng ta nói đến giáo đoàn Tăng Lữ. |
Nhưng bên cạnh đó có ba sự kiện lịch sử khác mà khi chúng ta t́m về lịch sử của đạo Phật th́ chúng ta thấy rất đặc biệt đó là trường hợp đạo Jainism. Đạo Jainism ngày nay chúng ta gọi là Kỳ Na Giáo hay là đạo lỏa thể. Đạo Jainism tuy rằng không phải là một đạo lớn chiếm đại đa số ở Ấn Độ nhưng đạo Jainism có ảnh hưởng không thể phủ nhận ngày nay trong xă hội Ấn Độ và vị giáo chủ của đạo Jainism là Mahavira và trong kinh điển thường gọi là Nigantha Nataputta. Nigantha (Ni Kiền Tử) là vị sáng lập ra đạo Jainism là người đương thời với Đức Phật và đă có nhiều sự tranh luận xảy ra được ghi trong kinh điển giữa những người theo đạo Nigantha và đệ tử Phật và thậm chí những người này đi t́m Đức Phật, chúng tôi lấy ví dụ là tướng quân Siha hay là trưởng giả Upali được ghi trong Trung Bộ Kinh cũng là một đệ tử của phái Nigantha. |
chụp tại... |
Phái Nigantha là một phái chủ trương
có nghiệp báo có nhân duyên nhưng
nghiệp báo và nhân duyên của họ giải
thích khác đạo
Phật. Chúng ta không làm một so sánh với
đạo
Jainism ở đây
nhưng chúng ta
chỉ nói một sự
kiện là cho đến
ngày nay nếu qúi vị đọc
lại kinh điển
của đạo
Jainism và kinh điển
này đă dịch
sang tiếng Anh qua loạt sách là
"Sacred Books of the East" qúi vị có
thể thấy rơ ràng ở
trong đó có một
bộ phận không nhỏ đề
cập đến
Đức Phật
với tên là Đại
Samon Gotama (Đại
Samon Cồ Đàm),
đây là một
trong những điểm
rất thú vị bởi
v́ không có một lịch sử
của một tôn giáo hay một lịch
sử cổ xưa
nào mà có sự
tương ứng
rất rơ ràng như
trường hợp
h́nh ảnh của Đức
Phật c̣n ghi lại trong kinh điển
của đạo
Jainism.
|
|
Một sự
kiện khác chúng ta cũng phải ghi nhận
đó là biên
niên sử của
Đạo Phật.
Theo lệ của Chư
Tăng Phật
Giáo Nam Tông hàng năm
nhập hạ th́ mỗi năm
như vậy tới
mùa an cư tức
là rằm tháng
Sáu Chư Tăng
nhập hạ, và khi Chư
Tăng nhập
hạ th́ đều
nhắc lại
một lần về Phật lịch năm
thứ mấy.
Ví dụ như
tại chùa Pháp Luân khi Chư
Tăng ngồi
lại với
nhau nhập hạ th́ Ngài HT Hộ Giác,
Ngài là vị Trưởng
Lăo là vị có bổn phận phải nhắc
cho Chư Tăng
biết đây
là mùa an cư
Phật lịch thứ
mấy, thí dụ như
Phật lịch 2554 th́ Ngài nói đây
là Phật lịch thứ
2554 sau khi Đức
Thế Tôn viên tịch. Lư do là ngày
xưa Chư
Tăng ở
trong đạo
Phật đảnh
lễ kính trọng nhau bằng
hạ lạp tức
là vị nhỏ đảnh
lễ vị lớn
và khi nói đến
hạ lạp th́ phải nói rằng
ḿnh tu Phật lịch năm
nào. Trên thế giới
ngày nay th́ quốc gia duy nhất c̣n dùng
Phật lịch làm quốc lịch đó
là Thái Lan, khi qúi vị về Thái Lan quí
vị sẽ thấy rằng
người ta
không để
là tháng 3 năm
2010 mà họ nói là tháng Ba năm
2554.
|
Đền thờ Đức Phật nhập Niết Bàn |
Th́ biên niên lịch đó
được
Chư Tăng
xử dụng tính
từ khi Đức
Thế Tôn viên tịch và ở
đây có một
chút khác biệt giữa
Tích Lan và Thái Lan, trong truyền thống của
Tích Lan th́ khi Đức
Thế Tôn Niết-bàn th́ tính là năm
thứ nhất,
nhưng Thái Lan
th́ tính từ năm
Đức Phật
Niết-bàn là số không sau 12 tháng mới
là năm thứ
nhất, do đó
có chênh lệch một chút, nhưng
sự tính toán
này có ghi rơ là tại sao tính như
vậy. Những
niên lịch của Chư
Tăng tại các
quốc gia Phật Giáo Nam Tông an cư
kiết hạ hàng năm
đều trùng
hợp với
những ǵ mà
chúng ta t́m thấy trong biên kư của vua A
Dục và do vậy chúng ta có thể minh
xác được
Phật lịch, ví dụ như
người Phật
tử có thể
hiểu được
là Đức Thế
Tôn đă viên tịch
cách đây 2554 năm
do đó Phật
lịch là 2554, chúng ta muốn biết năm
Đức Thế
Tôn đản
sinh th́ chúng ta cộng thêm 80 tuổi v́
Ngài sanh ra 80 năm
trước đó,
chúng ta muốn biết năm
Đức Thế
Tôn thành đạo
th́ chúng ta cộng thêm 45 năm
bởi v́ Ngài
sau khi thành đạo
Ngài hoằng
pháp 45 năm, đó
là những con số
mà chúng ta gọi là ghi lại rất rơ. Thật ra trong gịng lịch sử của Đạo Phật th́ có bốn người đă có những đóng góp mà chúng ta gọi là sự đóng góp vô giá để ngày nay khi chúng ta trở lại những nơi này chúng ta có thể thấy được những viên gạch những di tích tuy rằng đă ch́m sâu vào trong ḷng đất và được khai quật như vật vô tri nhưng lại là chứng tích với thời gian.
|
|
1) Người đầu tiên chúng ta phải nghĩ đó là Hoàng Đế A Dục. Đ ối với Hoàng Đế A Dục hầu như người Phật tử nào cho dù mới học Phật hay có khái niệm không nhiều về Phật Pháp th́ cũng có lần nghe nói đến Hoàng Đế A Dục. Và tại Ấn Độ này qúi vị nh́n thấy những thương hiệu có tên là Ashok, thí dụ như có hăng xe Leyland Ashok chẳng hạn th́ chữ Ashok đó là A Dục. Hoàng Đế A Dục ra đời 218 năm sau khi Đức Thế Tôn Ngài viên tịch và những năm đầu vị hoàng đế này đă là một bạo chúa nhưng lại có tài thao lượt hơn người, vị này đă thân chinh không những thanh toán tất cả những người anh em cùng cha khác mẹ với ḿnh trong hoàng tộc để dành lấy ngôi báu và vị này c̣n mở những cuộc trường chinh đánh những trận oanh liệt nhất trong lịch sử Ấn Độ kể cả trận Kalinga, trận Kalinga là trận đánh tại Orissa ngày nay ngày xưa là Kalinga. Người Kalinga là những người rất dũng cảm nhưng họ lại gặp vua A Dục gọi là kỳ phùng địch thủ và kết cuộc là trận chiến đó vua A Dục thắng nhưng sự chiến thắng đó đổi lại là một vùng đất thê lương, người ta nói xác người chất thành núi và máu đổ thành sông, và buổi chiều khi mặt trời sắp lặn nhà vua nh́n Kalinga toàn thể như một băi tha ma th́ nhà vua chạnh ḷng và tự hỏi một câu hỏi rằng kết cuộc sự chiến thắng của ḿnh phải chăng chỉ là tang thương máu lệ của thần dân bá tánh. Trận chiến đó đă thay đổi cuộcđời của vua A Dục, nhà vua trở về t́m lại với những h́nh ảnh rất thân quen mà nhà vua t́m thấy ở Pataliputra và trên đường viễn chinh của nhà vua đó là h́nh ảnh của những vị tăng sĩ và cuối cùng th́ nhà vua được giáo huấn bởi vị Thánh Tăng tên là Upagupta |
Hoàng đế A Dục |
Ngài Upagupta là bậc thông tuệ ở trong vai tṛ là một vị Thầy một người tư vấn cho nhà vua. Ngài Thánh Tăng Upagupta đă hướng dẫn vua A Dục đi hành hương một chuyến đi hành hương có ảnh hưởng toàn bộ lịch sử của Đạo Phật và ảnh hưởng đến tất cả chúng ta ngày nay, chuyến đi hành hương đó không dễ dàng, quí Phật tử đă ngồi xe từ Varanasi về Xá Vệ ngồi từ 3:00 giờ chiều cho đến 2:00 giờ khuya ngày đó qúi vị rất là mệt mỏi nhưng điều đó không thấm với vua A Dục thời xưa, bởi v́ đi tuy rằng là một vị hoàng đế nhưng phải đi xe ngựa và tuy là vị quân vương nhưng những đoạn đường đi qua th́ là những đoạn đường gồ ghề không tráng nhựa như chúng ta bây giờ, vua A Dục đă làm một cuộc hành hương đi từ Phật tích này sang Phật tích khác. | |
Đôi khi chúng ta ngồi tưởng nghĩ lại Đức Thế Tôn và những vị Thánh Tăng đă từng đi qua lại những con đường này nhưng các Ngài đi bằng đôi chân trần, các Ngài đi bộ, và chúng ta cũng có thể nghĩ lại vua A Dục đă đi vào những con đường hoàn toàn là bùn śnh đất đá không tráng nhựa không bằng phẳng, nhà vua đă làm một cuộc hành hương có một không hai, và nơi nào nhà vua đến đều ra lệnh trồng ở đó những trụ đá đánh dấu những chứng tích liên quan đến cuộc đời của Đức Thế Tôn: đây là nơi Đức Thế Tôn đản sinh, đây là nơi Đức Thế Tôn thành đạo, đây là nơi Đức Thế Tôn Chuyển Pháp Luân, đây là nơi Đức Thế Tôn viên tịch Niết-bàn, đây là nơi Ngài thành lập giáo đoàn tỳ kheo ni v.v... và những trụ đá mang tên là Ashoka Pillar tức là những trụ đá của vua A Dục đă tồn tại với thời gian, một vài trụ đá c̣n nguyên vẹn như ở Vaishali như ở Sanchi, có những trụ đá đă bị găy đổ nhưng c̣n lại một phần rất quan trọng như trụ đá ở Sarnath nơi Đức Thế Tôn chuyển Pháp Luân và đầu trụ đá chúng ta đă được dịp thăm viếng trong viện bảo tàng tại Sarnath, và những trụ đá chỉ c̣n lại trụ thôi như ở Lumbini hay ở Nigalisagar. Những trụ đá này c̣n nguyên vẹn hay c̣n một phần th́ những trụ đá đó là những chứng tích không thể chối căi được về sự có mặt của Đức Phật và những ǵ liên quan đến Đức Phật, gịng lịch sử kéo dài 2500 năm tuy là dài nhưng nh́n lại th́ thời vua A Dục chỉ có hơn 200 năm sau Đức Thế Tôn thời gian đó c̣n quá ngắn quá rơ ràng để những vết tích cuộc đời của Đức Phật c̣n đậm nét. |
Trụ đá của vua A Dục |
Thậm chí thế kỷ thứ Tư Ngài Pháp Hiển sang Ấn Độ rồi đến thế kỷ thứ Bảy Ngài Huyền Trang làm một cuộc hành hương khác th́ đến đây vẫn c̣n có chùa viện những ngôi chùa những nền tháp tại Bodh Gaya, tại Vaishali, tại Rajagaha, tại Kusinara, rồi chúng ta lại nói đến một vị vua mà cố gắng đánh dấu sự ra đời của vị Pháp Vương như là Đức Phật th́ chúng ta nhờ những trụ đá này rất là nhiều để có thể xác thực những vị trí, những vị trí gọi là những trọng điểm những cái cột mốc lịch sử rồi từ đó chúng ta có thể truy ra những phần khác. Cuộc hành hương đó của vua A Dục ảnh hưởng toàn bộ đến Đạo Phật và ảnh hưởng đến tất cả chúng ta ngày hôm nay. Chúng tôi biết rằng nhiều vị Phật tử đến một nơi mà chỉ thấy một trụ đá có lẽ là trụ đá đó đối với qúi vị th́ một trụ đá chỉ là một trụ đá b́nh thường, nhưng mà nếu chúng ta được hiểu rằng trụ đá được dựng tại đó cách đây 2300 năm bởi một vị hoàng đế để cố gắng đánh dấu một cái ǵ đó lưu lại cho hậu thế th́ chúng ta sẽ có một cảm kích vô ngần với một thái độ cực kỳ sáng suốt hết sức là lợi ích của vua A Dục đă để lại cho chúng ta. | |
2) Kế đến người thứ hai có công với Phật Pháp: Ngài Trần Huyền Trang. Vào thế kỷ thứ Bảy đời nhà Đường tức là cách đây một trăm năm, một người khác đă làm một chuyến đi hành hương cũng vĩ đại, sự vĩ đại đó cũng có thể nói rằng là những cuộc hành hương vô tiền khóang hậu, đó là sự hành hương của Đường Tăng Tam Tạng, Ngài Trần Huyền Trang. Có lẽ ít có nhân vật lịch sử nào mà hành hoạt của đời sống của ḿnh được biến thành huyền thoại biến thành tiểu thuyết hoá như là Ngài Huyền Trang. Nhưng chúng ta phải nh́n nhận rằng Ngài Huyền Trang ở trong Tây Du Kư trong tác phẩm của Ngô Thừa Ân tuy rằng được tiểu thuyết hóa và được viết trở thành một tác phẩm để lại trong văn học trong nhân gian nhưng Ngài Huyền Trang của Ngô Thừa Ân viết trong Tây Du Kư so sánh về tài trí và đảm lượt không bằng một phần nhỏ của Ngài Huyền Trang thật sự, Ngài Huyền Trang thật sự mà chúng ta được biết là một con người thông minh cực kỳ, con người đó đi từ Trường An tức là ngày nay chúng ta gọi là Tây |
Trụ đá vua A Dục |
An làm một
chuyến đi
Ấn Độ
tổng cộng 16 năm
rưỡi vừa
đi vừa
về, và lúc đi
là bởi v́
là một người
em nuôi của Đường
Thái Tông, nhà vua rất thương
nên không cho Ngài Huyền Trang đi,
nhưng Ngài phải
trốn đi v́
đại nguyện
của ḿnh và sang Ấn Độ
là một vùng đất
hoàn toàn xa lạ, tiếng nói xa lạ,
phong tục tập quán xa lạ, thức
ăn thức
uống cũng xa lạ nhưng
Ngài Huyền Trang đă
nhanh chóng hấp thụ được
tinh hoa của nền Phật học tại
đây và Ngài đă
đến đại
học Nalanda như
một học tăng
từ một
quốc độ
xa xôi nhưng mà
rồi ngày Ngài rời
Nalanda th́ Ngài là một vị giáo thọ
là một ở
trong những bậc
luận sư có
tiếng tăm
và là một người
mà lịch sử
Ấn Độ
ngày nay không có một tác phẩm lịch
sử nào của
Ấn Độ
mà không ghi chép về Ngài Huyền Trang một
người hành
hương từ
đất Trung
Hoa sang Ấn Độ
đă ghi lại
những h́nh
ảnh có thể nói rằng
người
Ấn Độ
đă không làm
những điều
đó.
Thời xưa có lẽ chúng ta ít có tưởng tượng đời nhà Đường bên Trung Hoa lại có một bộ óc mà chúng tôi có thể nói rằng sau này chúng ta có thể bắt gặp một con người khác đó là Captain Cook cũng đă làm một sự đo đạt từ Úc Đại Lợi, Tây Tây Lan và Hawaii. Ngài Huyền Trang xuất thân là vị tăng sĩ trong chùa nhưng khả năng về trắc địa, khả năng về đo đạt, khả năng về ghi tập, về địa dư trí th́ hoàn toàn là điều mới lạ với người Trung Hoa thời đó và có lẽ là nhân loại thời đó cũng không ghi chép được như vậy, nhưng Ngài đă ghi một cách rất tỉ mỉ ở trong Đại Đường Tây Vực Kư. Ví dụ như là Ngài chọn một cái mốc quan trọng chính như trụ đá của vua A Dục rồi Ngài cho biết rằng từ đó đi về hướng đông hay hướng đông nam bao nhiêu lư bao nhiêu dặm hay là bao nhiêu thước th́ có một cái tháp và tháp đó có giá trị ǵ v..v.. Ngài không chỉ kể lại chuyến đi của Ngài như là một chuyến du kư b́nh thường mà Ngài đă để lại những con số tương đối chính xác, chính xác đến nỗi mà về sau này những nhà khảo cổ vẫn dùng tới làm những tài liệu vô giá để nghiên cứu và khai quật, họ theo đó mà t́m được nhiều chứng tích quan trọng.
|
|
Chúng ta không nói về cuộc đời và sự đóng góp của Ngài Huyền Trang đối với nền Phật học của thế giới và đối với Trung Hoa nhưng mà có một điều là trên phương diện ghi chép địa dư trí ở trong quyển Đại Đường Tây Vực Kư của Ngài th́ đó là một trong những tác phẩm gọi là kỳ tích của một vị danh tăng Trung Hoa mà thời đó người ta biết rất ít về phương diện này. Chúng tôi cũng phải lưu ư quí vị rằng người Việt Nam có một bản dịch Đại Đường Tây Vực Kư của HT Như Điển dịch ở bên Đức th́ tập sách này mỏng thôi và chúng tôi có thể nói là lượt dịch bởi v́ chúng tôi có ba bản Đại Đường Tây Vực Kư bằng tiếng Anh chúng tôi đối chiếu th́ mặc dầu HT Như Điển có sự đóng góp nhiều trên phương diện dịch sang Hán Việt những nhân danh địa danh bằng chữ Hán nhưng HT đă lựa chọn một tác phẩm giảng lượt do vậy tập Đại Đường Tây Vực Kư đó đă không có những chi tiết hữu ích như bản tiếng Anh mà chúng ta có lâu nay, về điểm này th́ chúng ta phải nh́n nhận là Ngài Huyền Trang có lẽ đi trước thời đại đă tạo ra một tác phẩm mà về sau này ngay cả chính người Ấn Độ cũng phải nhờ tác phẩm này để biết về những thời đại những ǵ liên quan đến Ấn Độ vào thế kỷ thứ 7 thời đại người Ấn Độ không có ghi chép tỉ mỉ được như Ngài Huyền Trang. |
Trụ đá vua A Dục |
3) Người thứ ba là tướng Alexander Cunningham. Đến thế kỷ thứ 18 chúng ta lại có một nhân vật khác nhân vật này đúng ra ở cuối đời ông mới trở thành Phật tử, đó là tướng Alexander Cunningham là một viên tướng trong chính quyền thuộc địa Anh, ông được huấn luyện từ nha khảo cổ học và ông đă trở thành một trong những nhà khảo cổ có thẩm quyền bậc nhất thời bấy giờ, ông dành nhiều thời gian sang Ấn Độ. Và với uy tín và sự vận động th́ ở đây chúng ta cũng phải nói là người Anh họ là một đế quốc đă tạo nên không biết bao nhiêu là nước mắt và máu khi họ đi xâm chiếm và mở mang thuộc địa khắp nơi trên thế giới. Nhưng trên một phương diện khác th́ chúng ta cũng phải nghiêng ḿnh để khâm phục tinh thần khách quan và tôn trọng văn hóa của người Anh, chúng tôi lấy ví dụ là khi người Tây Ban Nha đến Nam Mỹ th́ với chủ nghĩa truyền đạo quan niệm về truyền giáo của những vị giáo sĩ Gịng Tên và chính quyền Tây Ban Nha th́ họ xóa sổ hầu hết những nền văn hóa mà đang tồn tại ở Nam Mỹ, đây là một điều rất không may. Thật ra khi người Tây Ban Nha đến Nam Mỹ th́ Nam Mỹ không giống như Bắc Mỹ chỉ là những bộ lạc da đỏ, mà những người ở Nam Mỹ đă có một nền văn minh rực rỡ, chúng tôi lấy ví dụ là vị nào về Mễ Tây Cơ nh́n những đền tháp của nền văn minh Mayan hay chúng ta xuống Lima ở Peru qúi vị đến Moche qúi vị thấy những thành phố tại Moche thành phố cổ th́ chúng ta hiểu rằng nền văn minh đó không có thua kém nền văn minh nào khác ở trên thế giới nhưng với chủ nghĩa truyền đạo và chẳng những xâm nhập tiêu diệt văn hóa gọi là hoại chủng của người Tây Ban Nha th́ họ đi đến đâu họ tàn phá một cách khốc liệt.
|
|
Chúng tôi có xem một cuốn phim tài liệu tại viện bảo tàng The Museum of Natural Science tại Houston ở trong đó những vị giáo sĩ Gịng Tên và chính quyền Tây Ban Nha tại Mễ Tây Cơ đă dùng vũ lực bắt những người dân địa phương phải đốt tất cả sách vở, những sách vở đó nếu ngày nay c̣n th́ cho chúng ta không biết bao nhiêu là những sự kiện quan trọng của quá khứ. Người Pháp cũng vậy nhưng đỡ hơn người Tây Ban Nha một chút, nhưng người Pháp th́ họ cũng chủ trương là xâm thực văn hóa tiêu diệt văn hóa của các quốc gia thuộc địa. Nhưng chúng ta phải nh́n nhận rằng người Anh trong chính sách thuộc địa của họ th́ họ đă có những cống hiến lớn, chúng tôi lấy ví dụ như là nền tư pháp của Ấn Độ ngày nay mặc dù đă độc lập từ năm 1948 đến nay th́ ngành Tư Pháp đó từ Ṭa Án Tối Cao Pháp Viện cho đến Toà Sơ Thẩm đến hệ thống cảnh sát Tư Pháp những nhân viên tư pháp tại đây đều giữ nguyên vẹn hệ thống tư pháp của người Anh chứng tỏ một điều rằng người Anh họ đă đem cái tốt nhất để xây dựng trên đất nước thuộc địa do đó mặc dầu chúng ta có chính sách apacthai phân biệt chủng tộc ở Nam Phi nhưng khi người Anh rút đi rồi th́ ở Nam Phi chính sách apacthai phân biệt chủng tộc là do người da trắng để lại, nhưng chúng |
Tướng Alexander Cunningham |
ta nói là Canada, Úc Đại
Lợi, Hoa Kỳ
và những nơi
mà từng là
thuộc địa
của Anh th́ người
Anh họ đă
xây dựng rất
nhiều và sự
ǵn giữ của
họ đối
với cổ vật
cổ tích ở
những thuộc
địa lại
là một thái độ
khác đáng
khâm phục.
Chúng tôi đọc những tài liệu của tướng Alexander Cunningham về những công tŕnh khai quật, thật sự chỉ hai năm cuối cuộc đời của ông ông mới qui y Tam Bảo mà thôi c̣n lại th́ ông đă nghiên cứu kinh Phật về Đạo Phật như là một nhà khoa học như một nhà khảo cổ không hơn không kém, ông không đến với Đức Phật bằng niềm tin của người Phật tử mà ông đến với Đức Phật bằng những viên gạch bằng những di tích c̣n lại và ông đă đọc rất kỹ những tài liệu của Ngài Huyền Trang và làm việc nhiều năm, ông để lại cho chúng ta những thánh tích ngày nay mà nha khảo cổ Ấn Độ bảo quản từ Sarnath cho đến Bodhi Gaya cho đến Kusinara những công tŕnh này chúng ta phải nh́n nhận rằng không phải là do người Phật tử làm và cũng không phải do người Ấn Độ khai quật, về sau này th́ nha khảo cổ Ấn Độ có khai quật thêm một số nhưng mà khởi sự và xác định được những đường nét cơ bản th́ phải nói rằng do công lao của tướng Alexander Cunningham.
|
|
4) Người
thứ tư
là Ngài Anagarika Dharampala,.
Và nói đến vị tướng Alexander Cunningham th́ chúng ta cũng phải nói đến một người khác, chúng ta tạm gọi là nhân vật thứ tư đă ảnh hưởng chúng ta rất nhiều đó là Ngài Anagarika Dharampala,. Tại Varanasi ngôi chùa Mùlagandhakuti Vihara do Ngài Anagarika Dharampala, đă xây cất vào năm 1937 mở đầu cho cuộc trùng hưng Phật Giáo tại Ấn Độ. Ngài Anagarika Dharampala, là người Tích Lan lớn lên trong trường của Thiên Chúa giáo rồi trong một cuộc đối thoại với một vị danh tăng Tích Lan Ngài đă trở thành một người Phật tử thực thụ và đă lên đường sang đây để đi t́m lại vết tích của Đức Phật, Ngài đă đến Bồ Đề Đạo tràng và đă khóc thật nhiều khi nh́n thấy Thánh Địa Bồ Đề Đạo Tràng bị chiếm bởi những người Bà La Môn, người ta vẫn c̣n t́m thấy ở đấy tượng Phật nhưng ở chung quanh là đầy dăy những mê tín tập tục của người Bà La Môn phủ trùm lên và người Phật tử không có tiếng nói nào ở trong việc ǵn giữ những thánh tích này
|
Chùa Mulagandhati Vihara |
Ngài Anagarika
Dharampala, đă
ở lại bằng
chính bản thân của ḿnh bằng
những khả
năng rất
hữu hạn
của ḿnh về tài chính cũng như
sức khỏe
và Ngài đă
tranh đấu
từng bước
một đă đến
gặp những
nhân vật lịch sử
kể cả thi hào Tago, Ngài vận động
chính phủ Anh kể cả ông Sir Edwin
Arnold tác giả quyển Ánh Sáng Á Châu
và tướng
Alexander Cunningham, và rất nhiều người
trong chính quyền thuộc địa
Anh để nói
với họ một
điều rằng
Đức Phật
không phải chỉ là một con người
của Ấn Độ
hay của Đạo
Phật mà Ngài là bậc Thánh Triết của
cả nhân loại và những
di tích thuộc về cuộc đời
của Đức
Phật không nên để
bị phủ dầy lớp
bụi của thời
gian hay là để
cho những người
ngoại giáo khai thác tận dụng như
là những chỗ
tín ngưỡng
thờ phượng
linh thần mà nên trả những
di tích đó về
cho Đạo
Phật cho những
người Phật
tử có được
một sự
thờ phượng
xứng đáng.
Ngài đă
làm việc rất lâu rất vất vả,
vất vả hơn
bất cứ sự
tưởng tượng
nào của chúng ta ngày nay, Ngài Anagarika
Dharampala,đă
thành công mang những
thánh tích trở
về cho người
Phật tử, mặc
dù ngày nay tại Thánh Địa
Bồ Đề
Đạo Tràng
chẳng hạn
th́ việc quản trị thánh tích phân nửa
vẫn nằm
trong tay của người
Ấn Giáo, phân nửa
nằm trong tay người
Phật tử,
nhưng mà chúng
ta phải nói một điều
rằng Ngài đă
làm rất nhiều việc cho sự
bảo tồn các Thánh Tích.
|