dieuphap.com
Trang chính
TT Giác Đẳng: Bài kinh hôm nay đề cập đến pháp bố thí, trước khi đi vào pháp bố thí chúng tôi xin được nói sơ về một nhân vật được đề cập đến trong bài kinh này. Công chúa Sumanà con của vua Ba Tư Nặc (Pasenadi), tên Sumanà là một tên rất đẹp ở trong Phạn ngữ. Công chúa đã theo vua Ba Tư Nặc đến gặp Đức Phật ngày đầu tiên khi vua đến diện kiến Đức Phật. Có lẽ qúi Phật tử đã từng nghe một bài kinh Đức Phật đề cập đến bốn điều không nên xem thường; một đứa nhỏ, một con rắn nhỏ, một hoàng tử trẻ, một vị samon trẻ tuổi. Khi Đức Phật Ngài giảng bài kinh đó thì công chúa Sumanà đã cùng với phụ vương của mình là vua Pasenadi có mặt để nghe. Công chúa Sumanà được nổi tiếng là một người sanh ra đời với dung sắc đẹp đẽ và từ trong người toát ra mùi hoa lài. Công chúa cũng có một lịch sử đặc biệt trên sự tu tập. Khi nghe xong Đức Phật thuyết giảng bài kinh này thì đã chứng quả Tu Đà Hườn. Lẽ ra thì công chúa xuất gia theo Đức Phật rất sớm nhưng vì là một người có hiếu và đặc biệt rất thương mến bà nội của mình nên công chúa đã lo lắng chăm sóc cho bà nội cho đến khi bà mất thì mới xuất gia, trước khi xuất gia thì nghe một pháp thoại của Đức Phật và đã chứng quả A Na Hàm và sau khi xuất gia không bao lâu thì chứng quả A La Hán. Trong Trưởng Lão Ni kệ chúng ta cũng nghe Tỳ Kheo Ni Sumanà kể lại hành trình tu tập của mình. Chúng tôi nhân bài kinh hôm nay nhắc lại để qúi vị nhớ rằng đây là một vị công chúa rất đặc biệt và cũng là một người có những thành tựu lớn ở trong đời sống tu tập. Bây giờ thì chúng ta trở lại bài kinh này là bài kinh mà những người cư sĩ nên nhớ và biết rõ, biết để chúng ta hoan hỉ và biết rõ để chúng ta nhận ra những giá trị về những gì chúng ta thể hiện trong đời sống của mình. Nói một cách tóm tắt, công chúa Sumanà đã hỏi Đức Thế Tôn về phúc quả của bố thí bằng cách làm một so sánh giữa một người bố thí và một người không bố thí, cách hỏi như vậy là một cách hỏi mang lại rất nhiều lợi lạc, chúng tôi lấy ví dụ như một người bình thường họ có thể hỏi rằng: "Bạch Đức Thế Tôn, bố thí mang lại lợi ích gì?" Đức Phật Ngài cũng sẽ giảng nhưng cách hỏi như vậy là hỏi rất bình thường không mang lại cho chúng ta thấy được sự khác biệt giữa bố thí và không bố thí. Và công chúa Sumanà đặc biệt hỏi tại đây một câu hỏi rất tinh tế: - "Bạch Đức Thế Tôn, một người có bố thí và một người không có bố thí thì khi sanh vào thiên giới có gì sai biệt, sanh vào cõi người có gì sai biệt và đi xuất gia thì có gì sai biệt và đắc đạo chứng quả có gì sai biệt?" Từ câu hỏicông chúa Sumanà đã nhận được câu trả lời của Đức Phật rất là rõ. Thì ở đây trước nhất là so sánh quả phúc nhân thiên một người bố thí sanh vào cõi trời và sanh vào cõi người có gì sai biệt, đây chúng ta tạm gọi là hai câu hỏi đi chung với nhau và hai câu hỏi sau là với một người đã từng bố thí nhiều và khi đi xuất gia thì có gì sai biệt và khi đắc đạo chứng quả có gì sai biệt, đó là câu hỏi thứ hai chúng ta cũng nên đặc biệt lưu tâm. Bây giờ trước nhất, chúng ta nên đề cập đến phúc quả của nhân thiên, ở đây câu trả lời của Đức Phật Ngài đưa ra rất rõ ràng. Nếu một người có bố thí thì sinh vào cõi trời về thọ mạng, về thiên sắc, về thiên lạc, thiên danh xưng và thiên tăng thượng thì vượt xa người không có bố thí. Thiên thọ mạng tức là tuổi thọ ở cảnh trời. Những vị sống ở cảnh trời dĩ nhiên là sống rất lâu nhưng có nhiều vị lại sống lâu hơn những vị khác, cũng giống như ở cõi người nếu so với những con vật thì chúng ta có phần sống lâu hơn, phần lớn những con vật trừ loài rùa thì chúng ta sống không bằng nhưng những loài như con chó tuổi thọ trung bình là 15 hay 17 tuổi, con voi trung bình là 50 năm, loài người thì có thể 7,8 mươi năm có thể cả trăm năm. Tuy vậy nói về chủng loại thì loài người nói chung bình cũng thọ mạng lâu dài, tuy nhiên, ở loài người thì cũng có người thọ mạng ngắn người thọ mạng dài, ở cõi trời cũng vậy. Có những câu chuyện về những vị thiên ở cõi trời dục giới thọ mạng sắp chấm dứt thì có những hiện tượng như là hoa trang điểm bị héo hay mồ hôi chảy ra hay tâm tư buồn bực v.v... thì điều đó báo trước là vị đó sắp mạng chung, ở trên cõi trời không có tuổi già giống như chúng ta mà khi tới thọ mạng chấm dứt thì chấm dứt. Thì ở đây thọ mạng tức là sống lâu. Thiên sắc là về dung mạo, có những vị trời rất đẹp đẽ thanh tú, chúng ta thường nghe nói là đẹp như tiên nhưng không hẳn những vị trời nào cũng giống nhau, có những vị thiếu phước về bố thí thì thiên sắc không được đẹp nhiều như những vị khác. Thiên lạc là về sự hưởng thụ ở cõi trời cũng giống như cõi trời dục giới cõi người có sắc, thinh, khí, vị ,xúc, sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, xúc lạc có những vị hưởng thụ được nhiều có những vị không hưởng thụ được nhiều, ví dụ sanh làm người cũng vậy ở trong cõi người có những người sống hạnh phúc hơn hưởng thụ được nhiều hơn thù thắng hơn, có những vị lại không được như vậy. Thiên danh xưng có nghĩa là danh tiếng có tiếng tăm được sự mến mộ. Thiên tăng thượng ở đây chúng ta hiểu như là sự sang cả. Có những người có được danh lớn nhưng đời sống họ không được sang cả, có những vị thiên có được thiên danh xưng nhưng không được thiên tăng thượng. Thì người bố thí khi sanh về cõi trời được năm quả phúc gọi là ưu việt thù thắng hơn những vị khác về thiên thọ mạng, thiên sắc, thiên lạc, thiên danh xưng và thiên tăng thượng. Trong cõi người, một người có bố thí thì họ cũng có được năm pháp là sống lâu, sắc đẹp, sự an lạc nội tâm, có danh xưng lớn, có sự sang cả. Năm pháp này là năm pháp khiến cho cuộc sống trong cõi người ưu thắng hơn những người khác. Bây giờ chúng ta tìm hiểu sâu vào là tại sao pháp bố thí lại mang cho một người được nhiều ưu việt như vậy. Pháp bố thí là một pháp tạo cho chúng ta cả hai lợi lạc. Có một lần Đức Phật Ngài dạy là nếu có một người nào biết nhiều về pháp bố thí biết rõ về pháp bố thí lợi lạc như thế nào như chính Đức Phật biết thì người đó không có bữa ăn nào mà không chia sẻ với chúng sanh khác. Tại sao? Thật ra, trên phương diện nội tại nếu chúng ta đọc kỹ bài kinh này chúng ta sẽ thấy rằng Đức Phật Ngài dạy rằng "bậc trí vượt san tham". San tham tức là bỏn xẻn keo kiệt, con người mà sống ích kỷ sống san tham nhiều thì tâm họ không được an lạc nhưng một người sống biết chia sẻ nhiều thì người đó được sự an lạc. Chúng tôi lấy một ví dụ là có một món ngon chúng ta nghĩ rằng nên chia cho những người khác chung quanh ăn mỗi người một chút thì dĩ nhiên là chúng ta không hưởng hết nhưng do chia sẻ như vậy làm cho tâm của chúng ta an lạc, nhưng một người có món ăn ngon mà họ chỉ nơm nớp sợ người khác sẽ lấy đi món ăn ngon đó hay người khác sẽ làm cho mình bị mất mát giảm bớt đi thì cái bỏn xẻn của họ cái keo kiết của họ làm cho họ không an lạc. Chúng ta để ý một điều không cần phải chờ đến kiếp sau mới thấy mà ngay trong cuộc sống hiện tại người nào rộng rãi người nào hay chia sẻ với người khác thì tâm người đó được an lạc, ngay cả nếu chúng ta thường bố thí và nếu chúng ta bị mất đồ thì cũng không khổ như là người không có bố thí tại vì người không bố thí thì lúc nào cũng bo bo ôm lấy cái khổ của mình và tâm của họ không có sẵn sàng chấp nhận sự mất mát, tâm của họ không được thanh thản khi vật đổi sao rời họ khổ lắm, nhưng người bố thí là người đó hiểu được giá trị của sự phân phát giá trị của ban bố và họ ít khổ hơn. Thì trước nhất, bố thí trên phương diện nội giới tức là nội tại, tâm của chúng ta bớt đi sự san tham. Nhưng trên phương diện đối tượng hay ngoại giới thì như thế nào? Chúng ta hiểu trên phương diện nhân quả thì nếu chúng ta mang lại cho người khác sự an lạc thì điều đó mang lại cho chúng ta quả rất lớn hay là chúng ta mang lại khổ đau cho người khác thì cái quả cũng lớn. Chúng tôi lấy một ví dụ: trên phương diện sát sanh chúng ta giết một con kiến thì cái quả ít hơn là chúng ta giết một con voi hay một con bò con trâu tại cái khổ của con kiến không lớn như cái khổ của con bò con trâu. Dĩ nhiên là có vài vị không đồng ý và cho rằng giết con nào cũng giống nhau. Nhưng thật sự cái phản ứng và sự cảm nhận của những con vật đó khác, đối tượng đó nếu mà mình tạo cái nghiệp cũng khác đi, mình làm phước cho chúng sanh nào mà chỉ sống với bản năng thôi thì phước ít, mà làm phước cho những chúng sanh nào có cảm nhận rõ ràng thì cái quả lại nhiều. Sư Trưởng có khi hay nói về những pháp bố thí theo A Tỳ Đàm là bố thí sắc, thinh, khí, vị, xúc, pháp, người đời thường thường nói rằng mình bố thí tiền bạc bố thí của cải mình cho cái này cho cái kia nhưng theo A Tỳ Đàm thì mình ban bố cho người khác cái gì mà người khác thấy đẹp bằng con mắt ví dụ như là chúng ta tặng cho người khác một pho tượng hay tặng người khác một bức tranh mà người ta nhìn thấy và cảm thấy rất là hoan hỉ rất là vui, hay là mình cho họ cái gì đó mà họ cảm nhận qua âm thanh, cảm nhận qua mùi, cảm nhận qua vị, cảm nhận qua sự xúc chạm đó là qua A Tỳ Đàm. Nhưng nói cách khác là thường thường một người bố thí mà đúng cách bố thí thì khiến cho người nhận pháp bố thí đó họ có được rất nhiều sự an lạc. Chúng tôi lấy một ví dụ là người ta đang đói mà mình cho họ một bữa cơm, cho một bữa cơm không phải chỉ đỡ đói mà khi họ ăn cơm họ cảm thâý nhìn vào chén cơm đó họ cũng vui, họ nghe lời nói mình cho họ cũng vui, cái mùi cơm họ thấy cũng thơm ăn thấy cũng ngon, thì những cái đó là tạo nên nhiều phước về sắc, thinh, khí, vị, xúc, pháp và do vậy sự cảm nhận của người đó rất là đầy đủ Ở đây chúng tôi muốn nói rằng một hành động bố thí là một tác động hai chiều, tâm của người bố thí cũng an lạc mà người nhận được thí cũng an lạc. Về điểm này thì so sánh như vầy là, nếu một người giữ giới thì nhiều khi bản thân của mình giữ giới, mình an lạc, người ở chung quanh nhận được không nhiều bất quá thì họ chỉ cảm nhận được người đó là người giữ giới họ cảm thấy vô hại sống gần người đó thì được hạnh phúc, nhưng thật ra là cái tác động trực tiếp một người giữ giới đối với người chung quanh đối với một người mình mới gặp nó không có nhiều như là mình bố thí cho một người nào đó. Ở đây chúng tôi không có nói là pháp trì giới thấp hơn, thật ra pháp trì giới cũng là pháp rất ưu việt nhưng riêng về sự bố thí là tâm của mình xả kỷ tức là cái gì mình có mình đem cho người khác cái đó gọi là xả kỷ và trước nhất tâm của mình được an lạc nhưng người nhận họ được rất nhiều sự an lạc. Đức Phật Ngài gọi là bố thí thực phẩm là cho sức mạnh, bố thí đèn là cho mắt, bố thí xe thuyền hay phương tiện di chuyển là sự an vui, thì khi mình cho người ta một cái gì nó ảnh hưởng đến rất nhiều thứ. Mới đây chúng tôi sang bên Honolulu để dự tang lễ của Ngài HT Giác Tâm, chư tăng sang bên đó ba vị. Ngài HT thì không có chùa lớn Ngài ở trong một tịnh thất nhưng Ngài có một số đệ tử ở trong đó có một là người Hoa trước kia sống tại Lào nói tiếng Lào và tiếng Thái và có người Việt Nam là đệ tử rất thân của Ngài, những người này họ có làm một nghĩa cử mà Chư Tăng tất cả đến đều rất cảm động đó là mặc dầu họ rất là bận tang lễ nhưng khi Chư Tăng sang thì họ dành hết thì giờ để lo cho Chư Tăng, ngoài tang lễ họ lo cho Chư Tăng về phương tiện như ăn ở di chuyển rất là chu tất. Không phải vì họ lo chu tất như vậy Chư Tăng được lợi rồi Chư Tăng hoan hỉ nhưng vì thấy tấm lòng của họ nghĩ về Ngài HT Giác Tâm, Ngài nằm xuống họ lo giống như những người con ruột của HT. Chúng tôi có cảm nhận được trong thời gian ở tại đó tang lễ của Ngài mỹ mãn về rất nhiều phương diện bởi vì thường thường người ta nói tang gia bối rối thì nó có nhiều vấn đề nhất là Chư Tăng, chúng tôi lấy một ví dụ là ở các ngôi chùa Việt Nam mình hay là các tang lễ thường người ta bận rộn có khi bữa ăn dọn lên hai ba tiếng đồng hồ rồi Chư Tăng mới lên ăn cơm mà hầu hết 95% chúng tôi đi dự lễ ở các ngôi chùa là Chư Tăng thường ăn cơm cúng tức là cơm đó họ dọn từ hồi nào Chư Tăng lên ăn cơm bữa nào cũng là ăn cơm nguội canh lạnh và chuyện đó xảy ra rất là thường nên chi mỗi lần qúi Thầy đi đám ít có Thầy nào muốn dự trai tăng ít có Thầy nào ăn những thực phẩm trai tăng mà cảm thấy khỏe khoắn, mà đó là phong tục của người Việt Nam nên khi qúi Thầy đến nhà hay làm lễ thì vấn đề ăn uống thường là cơm nguội canh lạnh, không biết là vì phong tục hay là vì cách sinh hoạt mà mình không biết nhưng về phương diện đó thì mình dở hơn người Thái dở hơn người Đài Loan dở hơn người Nhật Bản, tức là khi nào cũng vậy hễ tới ngày lễ thì thức ăn nhất là thức ăn chay mà đồ sào đồ nấu họ để rất lâu tại vì không thể nào chuẩn bị nấu liền hết nhưng đặc biệt là có những đám tang như đám tang của Ngài HT Giác Tâm thì thấy rằng Chư Tăng sang họ lo lắng rất đầy đủ những bữa cơm đầy đủ nghĩa là họ có để tâm đến thì mình thấy tang lễ nó khác đi tức là họ mang lại sự an lạc cho Chư Tăng họ mang lại sự an lạc cho những vị ở xa về hay những vị đến dự lễ. Thì khi mình có trải qua những sự việc như vậy mình mới thấy tâm con người khi làm chuyện bố thí mà bố thí một cách đúng cách thì gây một tác động ảnh hưởng giây chuyền nhiều thứ mà nó làm cho mỗi thứ khác biệt đi tức là chúng ta thấy một buổi phước sự họ làm như vậy mỹ mãn hơn là một người làm chỉ làm cho có mà thôi. Nói một cách khác điều chúng tôi muốn nói ở tại đây đó là nếu chúng ta hiểu cách bố thí đúng pháp thì bản thân của chúng ta tự thân của chúng ta an lạc và người nhận được sự bố thí đó cũng được an lạc tạo nên phước báu thù thắng. Do đó Đức Phật Ngài nói về thọ mạng, Ngài nói về dung sắc, Ngài nói về thiên lạc, nhân lạc, Ngài nói về danh xưng, Ngài nói về sự tăng thượng. Thì những điều đó đều là thù thắng hết tại vì nó ảnh hưởng rất lớn ảnh hưởng rất xa. Ngay cả trong một pháp hội, trong một hội chúng, hay ở bất cứ nơi nào chúng ta thấy có sự ban bố chia sẻ thì ở nơi đó có sự an lạc. Chúng tôi đi sinh hoạt ở những nơi để ý thấy rằng trong những đại lễ hay trong những buổi tụ họp người tổ chức hay người tham gia tổ chức họ cố gắng có một món quà tặng nhỏ hay có cơm trưa hay có nước uống cho những người tham dự thì buổi sinh hoạt đó ấm cúng hoan hỉ, còn những nơi chúng ta đến chỉ có tánh cách có mặt, cho có nghi thức rồi mạnh ai nấy lo thì ảnh hưởng chung quanh ít, nó làm cho không khí khác đi. Do vậy một người có bố thí sanh ra đời họ được sống lâu, có những người sống lâu nhưng lại không có được sự an lạc có những người sống lâu lại có được an lạc như là về dung sắc, về nhân lạc, hay thiên lạc, về thiên danh xưng, về nhân danh xưng về tăng thượng những điều này làm cho cuộc sống mỹ mãn hơn cuộc sống có nhiều ý nghĩa hơn. Bây giờ chúng ta đi sang một đoạn khác, đoạn này đặc biệt thú vị bởi vì khi nàng Sumanà hỏi tiếp: - "nếu một người đã từng bố thí là có phước bố thí một khi đi xuất gia thì khác nhau như thế nào?" Với câu hỏi liên quan đến sanh vào cõi trời sanh vào cõi người thì là câu hỏi rất dễ hiểu mà chúng ta thường nghe nhưng đi xuất gia thì thế nào thì Đức Phật Ngài dạy ở đây cũng là một điều rất đặc biệt và qua điều đó thì chúng ta sẽ hiểu được đời sống của một vị tăng sĩ như thế nào. "Có sự sai biệt này Sumanà, Người có bố thí, khi được xuất gia, vượt qua vị xuất gia không có bố thí trên năm phương diện: Thường hay được yêu cầu nhận y, ít khi không được yêu cầu; thường hay được yêu cầu nhận đồ ăn khất thực, ít khi không được yêu cầu; thường hay được yêu cầu nhận sàng tọa, ít khi không được yêu cầu; thường hay được yêu cầu nhận dược phẩm trị bệnh, ít khi không được yêu cầu. Vị ấy sống với những vị đồng Phạm hạnh nào, các vị này đối với vị ấy, xử sự với nhiều thân nghiệp khả ái, với ít thân nghiệp không khả ái, với nhiều khẩu nghiệp khả ái, với ít khẩu nghiệp không khả ái, với nhiều ý nghiệp khả ái, với ít ý nghiệp không khả ái, giúp đỡ với nhiều giúp đỡ khả ái, với ít giúp đỡ không khả ái.." Chúng tôi nói tóm tắt lại. Vị nào đã từng bố thí khi xuất gia thì với tứ vật dụng tức là y phục, thức ăn, chỗ ở, thuốc men, chúng ta gọi là tứ vật dụng hay là tứ sự thì nhiều hơn những vị không có bố thí. Về điểm này qúi vị phải ở chùa lâu mới hiểu mới cảm nhận được có một điều lạ là cũng thời xuất gia cũng sống trong chùa thì lúc đó mình mới thấy phước của mỗi người mỗi khác, có những người đầy đủ rồi mà Phật tử vẫn muốn cúng dường nhưng có những vị rất thiếu thốn. Về việc này không phải vì vị này nói tài hay không tài, dĩ nhiên là có nhiều vị có một vài cách sinh hoạt khiến cho Phật tử lui tới nhiều nhưng đa phần là do phước. Về điểm này thì một người hiểu đạo sẽ không có tự hào tự cao là mình được nhiều, hay được ít cũng không có mặc cảm, mà là do phước của mình, cũng thời sinh sống trong chùa mà có những vị về phước báu hữu lậu công đức có rất nhiều. Nhưng riêng về điểm thứ năm thì Đức Phật nói rằng người có bố thí thì sống giữa các bạn đồng phạm hạnh tức là những vị đồng tu thì được đối xử bằng thân nghiệp khả ái, khẩu nghiệp khả ái, ý nghĩ khả ái hay giúp đỡ nhiều vị này. Thế nào là thân nghiệp khẩu nghiệp ý nghiệp khả ái, tức là những người chung quanh họ đối với mình bằng tâm từ thì nhiều mà tâm tự ái thì ít, tức là trong lời nói hành động ý nghĩ nhận được nhiều sự thương mến hơn. Điểm này cũng rất là thú vị, là một người có sự bố thí nhất là mình bố thí bằng tâm đại bi thí dụ như một người bố thí mong chúng sanh được an lạc, bây giờ mình thâý một người nào đó đến gặp mình rồi mình muốn cho họ một bữa ăn hay cho họ ly trà để họ đỡ đói hay đỡ khát trong đó có gói lòng từ bi và có tâm từ mong cho mọi người được an lạc. Người bố thí cũng có khi mang tâm bi trong đó, thí dụ khi thấy người ta khổ mình làm cho người ta bớt khổ, do tâm từ tâm bi chất từ chất bi nằm trong hành động bố thí thì nó mang lại cho mình được phước là phước đức khiến những người chung quanh đối với mình bằng lời nói hành động và ý nghĩ rất ôn nhu hiền thiện rất là an lạc. Cũng có nhiều vị đi xuất gia sống với tăng chúng sống với tăng và ni thường bị những người khác nói chuyện với mình cộc lốc hay họ không thương mến mình. Sống ở trong chùa cũng vậy không phải là vị nào cũng giống nhau có nhiều khi sống trong chùa mình không làm gì hết nhưng người khác lại thương mến mình và có nhiều khi có những vị sống trong chùa thì hay gặp những người khác đối xử với mình không tốt. Thì lúc đó chúng ta nên biết rằng vì chúng ta có phước đức hay không, đặc biệt là chúng ta có cái phước bố thí hay không. Chúng ta thấy rằng năm pháp Đức Phật dạy một vị xuất gia trước kia đã từng có bố thí khác biệt với những vị không có bố thí về tứ vật dụng, về y phục, thức ăn, sàn toạ, chỗ ở và thuốc men, đồng thời sự đối sử của những vị phạm đồng phạm hạnh đối với mình cũng có khác biệt là do cái phước mình đã có bố thí, đó là theo phương diện mình đi xuất gia. Bởi vậy có nhiều vị bình thường làm phước đừng nghĩ rằng mình làm phước thì chỉ được cái phước sanh vào cõi người cõi trời không mà khi mình đi xuất gia mình cũng còn có sự an lạc của đời sống xuất gia, nó cũng trợ duyên rất lớn. Qúi vị cứ tưởng tượng là mình vào trong chùa sống mà những người ở chung quanh mình những đạo bạn những vị pháp hữu chung quanh mình họ đối với mình hoàn toàn với cái nhìn không thoải mái thì mình cũng không thoải mái nhưng mà những người chung quanh là Thầy Tổ đạo bạn huynh đệ đối với mình một cách rất là từ ái từ mẫn thì chúng ta sống trong chùa được sự an lạc lớn lắm. Nghĩ đến điều đó thì chúng ta nên hoan hỉ để bố thí. Bây giờ chúng ta bước sang phần sau cùng của bài kinh: - "Nhưng bạch Thế Tôn, nếu cả hai đều chứng quả A-la-hán. Với hai vị chứng đạt A-la-hán ấy, bạch Thế Tôn có sự đặc thù nào, có sự sai khác nào?" - "Ở đây, này Sumanà, Ta nói không có sự sai khác nào, tức là so sánh giải thoát với giải thoát". Chúng ta nên lưu ý câu Đức Phật dạy: "sự so sánh giải thoát với giải thoát", qúi vị nên nhớ câu: "Ta nói không có sự sai khác nào, tức là so sánh giải thoát với giải thoát." Dĩ nhiên là đời sống xuất gia của Tôn Giả Ananda sau khi đắc đạo chứng quả có những sự khác biệt với sự xuất gia sau khi đắc đạo chứng quả của Ngài Revata, Ngài Angulimala có sự khác biệt với Ngài Maha Kasapa đó là trên phương diện bình thường thôi nhưng trên phương diện giải thoát và giải thoát là đoạn tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận si, đã đoạn tận vô minh và ái dục, chứng đạt Chánh Trí Niết Bàn thì sự chứng đạt đó giống nhau. Chúng ta thường có ý nghĩ là quả vị giải thoát có quả vị cao quả vị thấp, hay bên Tịnh Độ Tông có Cửu Phẩm Liên hoa tức là cũng về cực lạc nhưng hoa sen lại có nhiều thứ bậc thấp cao gọi là Cửu Phẩm Liên Hoa, hay Chư Phật thì có Toàn Giác, Độc Giác, Thinh văn v.v... Nhưng chúng ta đừng quên một điều rất quan trọng đó là quả vị giải thoát hoàn toàn giống nhau, khi đã đoạn tận vô minh và ái giống nhau, thấy được chân tướng của vạn pháp giống nhau, tâm tư hoàn toàn giải thoát giống nhau. Về điểm này thì có nhiều khi nghe người ta bàn tử vi người ta nói tử vi chỉ áp dụng với người thường chứ người đi tu không áp dụng hay là tới tuổi nào đó thì không bàn tử vi nữa thí dụ như trên 80 tuổi chẳng hạn, thì chúng tôi cũng không rõ là những người đó họ có ý nghĩ gì nhưng chúng ta cũng phải nói rằng nó có những dị biệt mà chỉ có thể áp dụng trong phạm trù đó thôi, ở trong thế giới loài người nếu nói về danh xưng nói về tăng thượng nói về sự hưởng lạc nói về dung sắc v.v... thì có sự sai biệt. Nhưng nếu chúng ta nói về sự giải thoát hoàn toàn giải thoát của vị đoạn tận tham sân si thành tựu Chánh Trí thì không có gì khác biệt, đó là một điều rất là vi diệu. Tại vì sự giải thoát nó là rốt ráo, tại vì sự giải thoát là điều đoạn tận sanh tử và tại vì giải thoát là vị nhận ra được chân tướng của vạn pháp, thì những điều này không thể nói có sự sai biệt. Chúng tôi trong tương lai gần sẽ giới thiệu với qúi Phật tử một bài kinh khác mà qua đó Đức Phật Ngài cũng nhấn mạnh đến một điều là sự tối hậu sự sau cùng của giải thoát và ở đó những giá trị gọi là giá trị của thi thiết giá trị của trần gian không còn có ý nghĩa nữa mà điều đó người ta gọi sự rốt ráo nghĩa là tối hậu hoàn toàn sau đó không có gì khác thì đạt đến đích điểm đó tất cả những vị giải thoát đều hoàn toàn giống nhau. Và ở đây Đức Phật Ngài nói rằng trên phương diện so sánh với giải thoát thì những vị này giống nhau. Ngày hôm nay chúng ta đặc biệt nói về phúc quả của hạnh bố thí và ở đây được công chúa Sumanà hỏi Đức Thế Tôn qua bốn câu hỏi là:
|