dieuphap.com Trang Chính |
|
TT Giác Giới (nick TT
Tuệ Siêu) trong room Phật Pháp Buddhadhamma ngày 18-10-2010
Sức mạnh của tâm thanh tịnhMinh Hạnh chuyển biên Hôm nay chúng ta học một câu chuyện bổn sanh, qua câu chuyện đó chúng ta có được một bài học nói về sức mạnh của tâm thanh tịnh và sự suy sụp của tâm bất tịnh. Câu chuyện hiện tại và câu chuyện quá khứ Đức Phật Ngài kể lại cho thanh niên Balamon nghe giống nhau, khi một người dầu trước đó có thông minh và nhớ nhiều thuộc lòng các chân ngôn và đọc lại những chơn ngôn đó thông suốt, nhưng về sau tâm của người này bị vẩn đục bởi phiền não chi phối thời khả năng trí nhớ và trí tuệ người ấy không có được như xưa. Xuyên qua câu chuyện này chúng ta phải làm gì để khắc phục được khi trí nhớ bị mất và trí tuệ bị lu mờ. Chúng tôi sẽ chia sẻ với qúi vị qua những nội dung đó. Trước hết chúng ta hãy phân tích thế nào là trạng thái tâm thanh tịnh và thế nào là trạng thái tâm uế nhiễm. Trạng thái tâm thanh tịnh ở đây là nói đến trạng thái tâm tịnh hảo thuộc về thiện pháp. Tâm tịnh hảo có ba là tâm thiện, tâm quả, và tâm tố tức là có vi tác. Nhưng đối với những tâm hoạt động như tâm học hỏi thuộc lòng và suy nghĩ về pháp, đối với kẻ phàm phu chúng ta tâm hoạt động như thế là tâm thiện, tâm tịnh hảo thuộc về thiện pháp. Tâm quả thuộc về đổng lực thì chỉ có tâm quả siêu thế thì phàm phu chúng ta chưa đạt được. Tâm tịnh hảo thuộc về đổng lực tố thì tâm đó là tâm của vị A La Hán, chúng ta cũng chưa có được. Chúng ta chỉ có mỗi một thứ tâm tịnh hảo thuộc về đổng lực đó là tâm thiện. Tâm thiện này vì nó có những thuộc tính phối hợp, thuộc tính tương ưng tức là vô tham-alobha, vô sân-adoha, vô si-amoha. Lại thêm nữa là có những thuộc tính thuộc tịnh hảo chẳng hạn như có tín, có niệm, có tàm, có qúi, có tâm thuộc tính trung hoà hay là sở hữu tâm hành xả, có tịnh thân, tịnh tâm, khinh thân, khinh tâm, nhu thân, nhu tâm, thích thân, thích tâm, thuần thân, thuần tâm, chánh thân, chánh tâm, vì có những đặc tính như vậy cho nên tâm tịnh hảo trở nên thanh tịnh tốt đẹp. Với trạng thái tâm thanh tịnh tốt đẹp này mới phát triển được trí tuệ và duy trì được trí nhớ. Cũng giống như một cái chai sạch chúng ta có thể đựng nước sạch lâu ngày, và cái chai bị bẩn nếu chúng ta dùng cho dù để đựng nước sạch thì một hai ngày sau nó sẽ làm nước trở nên bẩn như thế nào. Thì ở đây chúng ta nên hiểu chai sạch chỉ cho trạng thái tâm thanh tịnh và chứa nước là chỉ cho những điều chúng ta học hỏi những kiến thức chúng ta đã có do nơi trí tuệ và trí nhớ đã thành tựu được. Thì trí tuệ và trí nhớ đó nếu như được duy trì bởi tâm tịnh hảo với một nếp sống thanh tịnh lành mạnh trong sáng thì trí tuệ và trí nhớ đó phát triển và duy trì được lâu dài. Đó là ý nghĩa tâm thanh tịnh. Thế nào là tâm uế nhiễm? Tâm uế nhiễm ở đây là chỉ cho trạng thái tâm bất thiện akusalacitta và tâm bất thiện này có ba loại: tâm bất thiện bị tham chi phối, tâm bất thiện bị sân chi phối, tâm bất thiện không có tham không có sân nhưng bị hoài nghi và phóng dật chi phối đó gọi là tâm si. Thì tâm làm cho suy sụp trí nhớ và trí tuệ tâm bất tịnh đó là tâm cấu uế chính do tâm bị tham chi phối, bị sân chi phối, bị hoài nghi bị phóng dật chi phối. Khi một người sống nhiều với tâm bất thiện thì những gì mà trước đây họ học hỏi được do trí nhớ và trí tuệ thành tựu thì bây giờ chính do tâm bất thiện này làm cho suy giảm, đó là ý nghĩa về tâm ô nhiễm. Như vậy thì ở đây chúng ta thấy những điều tốt đẹp nào chúng ta đã có được nếu những điều tốt đẹp đó được duy trì bởi trạng thái tâm thiện tâm tịnh hảo thì những điều tốt đẹp đó sẽ còn tốt đẹp mãi, còn nếu những điều tốt đẹp nào bị tâm bất thiện tham sân si chi phối thì điều tốt đẹp đó sẽ mất đi. Bài học của chúng ta hôm nay là sự nguy hại của tâm cấu uế và sự lợi ích của tâm thanh tịnh. Qua câu chuyện này thì chúng ta đã thấy rõ chàng thanh niên trong quá khứ là tiền thân của chàng thanh niên hiện tại, chàng thanh niên này trước đây khi tâm chưa bị quấy nhiễm bởi tham, bởi sân, bởi si, bởi hoài nghi, bởi phóng dật, thời anh ta học chân ngôn rất dễ mau thuộc mau nhớ và nhớ lâu khi đọc lại chân ngôn đó anh ta đọc rõ từng câu một thứ lớp trật tự, đó là do lúc bấy giờ tâm của anh ta chưa bị quấy nhiễu, nhưng cho đến khi anh ta lập ra đình rồi thì những sự tham chấp ái luyến đối với vợ, thương yêu con cái, rồi dính mắc tài sản lại bận rộn nhiều gia sự, có khi sân giận bất bình, có khi thì bị hôn trầm thụy miên dã dượt, có khi thì bị phóng dật suy nghĩ miên man, thì lúc bấy giờ anh ta không còn khả năng để nhớ được những chơn ngôn mà trước đây anh đã học thuộc. Sự kiện đó rất dễ dàng để cho chúng ta hiểu một điều là nếu chúng ta muốn duy trì pháp tốt đẹp thì chúng ta phải giữ tâm an tịnh, chỉ có tâm an tịnh thì mới giúp cho trí nhớ và trí tuệ của chúng ta đã được phát triển được duy trì. Chúng ta biết rằng khi nước trong thì mới thấy được những sinh vật sống dưới đáy nước thậm chí là hòn sỏi hay cát ở dưới nước cũng thấy được. Nhưng khi nước bị vẩn đục cá lội, hay cua sò ốc hến ở dưới đáy hồ cũng không thấy được, hoặc những hạt sỏi những viên đá nằm dưới đáy hồi cũng không thấy được. Ở trong cuộc sống có những điều nguy hiểm mà chúng ta không để ý khi tâm bị tham chi phối nhiều, chúng ta bị sân chi phối hay bị phóng dật hôn trầm thì chúng ta nghĩ đó là chuyện thường, tâm phàm phu là như vậy thôi, nhưng nếu chúng ta tiếp tục để tâm bị cấu uế bởi những triền cái như vậy thời chúng ta sẽ đánh mất đi trí tuệ và trí nhớ của chúng ta. Chúng ta không nên xem thường. Nói đến điều này chúng ta có rất nhiều điểm để bàn đến, trước nhất chúng ta nói về bốn sự kiện mà Tôn Giả Xá Lợi Phật đã thuyết giảng cho chư tỳ kheo Ngài đưa lên bốn thí dụ: Làm như thế nào để chúng ta có thể duy trì được một trạng thái tâm đã thanh tịnh càng thanh tịnh và một trạng thái tâm đã bị cấu uế trở lên thanh tịnh để đem lợi ích cho mình và cho người khác? Có những pháp môn tu tập sẽ giúp cho chúng ta gột rửa được những trạng thái tâm. Những sự tu tập đó là gì? Chúng ta có ba việc tu tập: Pháp tu tập thứ nhất là: Giới, tính chất của giới giống như hàng rào để ngăn chận sự xâm nhập của kẻ trộm như thế nào thì giới sẽ ngăn chặn sự xâm nhập của phiền não tạo nên những điều quấy ác. Như vậy việc tu tập trước tiên là chúng ta phải giữ giới, chúng ta phải sống phản tỉnh phải xét lại thường xuyên về giới trong ngày mà chúng ta có thân hành, có khẩu hành, có ý hành. Những thân hành nào thuộc về thiện pháp có lợi ích được bậc thiện trí tán thán thì chúng ta duy trì hành động đó, còn thân hành nào bị bậc trí chỉ trích thì nó thuộc bất thiện pháp hại mình hại người, đưa đến khổ đau, chúng ta ngưng ngay hành động đó bằng giới. Lời nói (khẩu hành) cũng vậy nếu chúng ta thường xuyên cảnh tỉnh suy xét về lời nói của mình đã nói đang nói và sẽ nói xem coi lời nói đó có lợi hay bất lợi, đưa đến hạnh phúc hay đau khổ được người trí tán thán hay chỉ trích. Có suy xét như vậy chúng ta mới áp dụng lời nói, lời nói nào có lợi mình lợi người, lời nói nào đưa đến sự an lạc, lời nói nào mà được bậc thiện trí thức tán thán thì chúng ta nên nói lời nói đó, còn lời nói nào quấy bất thiện thì chúng ta nên từ bỏ. Chúng ta giữ giới tức là phải phản tỉnh tam nghiệp như vậy, phải phản tỉnh thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp như vậy. Sự giữ giới đó mới giúp cho chúng ta gột rửa được những ác bất thiện pháp đã sanh và làm cho những thiện pháp đã sanh được duy trì. Đó là cách tu tập thứ nhất để giúp cho chúng ta tâm ý thanh tịnh. Pháp tu tập thứ hai là: Định. Tu tập về định có ba trường hợp: 3) Chánh định cũng là chi phần của định. Là chúng ta cố gắng làm sao tập trung tư tưởng, mỗi ngày chúng ta phải dành ra 5 phút để tập trung tư tưởng, 5 phút, 10 phút cũng được. Sự tập trung tư tưởng đó theo cách thiền chỉ cũng được và thiền quán cũng được. Nghĩa là chúng ta phải có sự định tâm, nhờ sự định tâm đó chúng ta sẽ làm việc sáng suốt minh mẫn. Nếu để cho tâm tán loạn lao chao phóng dật như vậy tâm không có được thanh tịnh. Cũng giống như ngọn đèn nếu đứng yên thì ngọn đèn đó sẽ toả ra ánh sáng, còn khi ngọn đèn trước gió nó cứ chập chờn chập chờn, như ngọn nến chẳng hạn để trước gió nó cứ chập chờn ngả bên đây ngả bên kia làm cho ánh sáng không được tỏ rõ. Thì định tâm cũng giống như ngọn đèn được giữ yên ánh sáng tỏa rõ ràng. Còn khi ánh sáng chập chờn ngọn đèn mà leo lét chập chờn thì cũng giống như trạng thái tâm phóng dật. Cho nên ở đây cách chúng ta tu tập về định để trí tuệ và trí nhớ của chúng ta duy trì và phát triển tốt là chúng ta phải có chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Tu tập về tuệ. Trí tuệ không phát sanh đến những người không suy luận chúng ta phải thường xuyên trao dồi. Trí tuệ chúng ta không phải là một đặc ân của trời cho mà cũng không phải là bẩm sinh người có trí tuệ rồi trí tuệ đó giữ vững mãi, không phải là như thế, trừ ra đối với một bậc giác ngộ bậc đã chứng đạo quả thì trí tuệ của vị đó là bất động trí, còn trí tuệ của phàm phu chúng ta thì luôn luôn bị giao động cho nên chúng ta phải tu tập về trí. Chúng ta tu tập về trí là tu tập về giới, định và tuệ. Tu tập về tuệ ở đây chúng ta tu tập theo hai chi phần: 1 - Chi phần thứ nhất của tuệ - là chúng ta phải có chánh kiến. Chánh kiến là chúng ta phải suy xét đúng chỗ nào mà chúng ta có sự hoài nghi thì chúng ta nên hỏi lại, những cái gì chúng ta hiểu còn cạn thì cố gắng suy luận để hiểu cho sâu và hiểu theo hướng chân chánh, đúng pháp, đúng lý nhân quả. Và kinh điển Đức Thế Tôn đã thuyết giảng là kim chỉ nam cho chúng ta để chúng ta suy luận một cách chính xác. Thường thường thì chúng ta có một quan niệm rất sai lệch là chúng ta nghĩ rằng người tu tập theo pháp môn này theo hệ phái kia, hay là người có chánh kiến nếu đi theo hệ phái môn phái tông phái khác thì là người tà kiến. Điều đó không phải. Tà kiến và chánh kiến không phải dựa vào hình thức đó. Dầu cho người này đang ở trong phòng có tủ kinh điển Tam Tạng nhưng người này không chịu đọc và không chịu suy luận thì người này vẫn có tà kiến như thường. Chứ không phải là nói rằng ở trong thư viện của chùa chúng tôi có đầy đủ Tam Tạng và chú giải thì chúng tôi sẽ là người có chánh kiến. Không phải như vậy. Do chúng ta suy luận hoặc là do chúng ta nghe người khác giảng giải. Nguyên nhân phát sanh lên chánh kiến có ba: a) Một chúng ta nghe pháp từ nơi người khác, nghe người khác giảng giải phân tích, chúng ta hiểu rồi phát sanh ra chánh kiến. 2 - Chi phần thứ hai của tuệ - là chúng ta tu tập chánh tư duy, hễ mỗi lần suy nghĩ cái gì thì phải là suy nghĩ với tư tưởng ly dục không đắm nhiễm, mỗi lần suy nghĩ là suy nghĩ bằng tâm mát mẻ bằng trạng thái không sân hận, rồi chúng ta phải suy nghĩ với tư tưởng bất hại, không nên tối ngày từ sáng đến chiều lo suy nghĩ thù hận người này ghét người kia, tìm mưu này kế nọ làm cho chúng sanh khác đau khổ để trả thù để cho hả giận v.v... Tư duy của chúng ta hàng ngày là phải ly dục tư duy, vô sân tư duy, và bất hại tư duy, chúng ta tu tập như thế thì thử hỏi làm sao tâm chúng ta lâu ngày không được thanh tịnh, với một người mà tư duy vô tham, tư duy ly dục, tư duy vô sân, và tư duy bất hại thì trí tuệ càng lúc càng sáng lên bởi vì đó là mảnh đất phong phú màu mở là một giòng nước trong suốt có thể thấy được tới đáy hồ hay đáy suối đáy sông. Ở đây chúng ta cần phải hiểu giá trị của tâm thanh tịnh đem đến nhiều lợi lạc cho mình và cho người khác: trước nhất là để duy trì trí nhớ, hai là để làm sao duy trì trí nhớ và trí tuệ tốt để chúng ta có trí tuệ sáng suốt minh mẫn, từ lúc còn trẻ cho đến khi trung niên cho đến khi lão niên lúc nào trí tuệ trí nhớ của chúng ta cũng sáng suốt minh mẫn tỉnh táo thì đó là một điều tốt. Còn nếu chúng ta không tu tập theo giới, theo định, theo tuệ, bằng cách này thì như vậy là đã khuấy đục nội tâm này làm cho trí nhớ trước đây bị giảm thiểu xuống và mất đi, thì nó sẽ đưa đến hại mình hại người . Cho nên trong bài học này là một câu chuyện Đức Phật Ngài đã chỉ nhắc kinh Bổn Sanh thôi để cho chàng thanh niên đó nghe xong thì rất hoan hỉ và chứng Tu Đà Hườn ngộ được pháp. Chúng ta bây giờ nghe câu chuyện này nên học và nên biết ở trong đời sống tu tập có những kho tàng qúi giá mà chúng ta không biết khai thác, chúng ta cứ treo tấm biển để đó thôi rồi ai muốn khai quật ai muốn tìm hiểu thì cũng được, chúng ta không tự mình để tìm tòi cái kho tàng đó, cái kho tàng đó tức là cái pháp thực hành để duy trì chánh niệm được trí nhớ và trí tuệ, chúng ta phải tự mình làm công việc đó chứ không thể ỷ lại vào ai được, chúng ta cầu Đức Phật, Đức Phật cũng không có ban cho chúng ta một trạng thái tâm sáng suốt tỉnh táo được, mà Đức Phật Ngài dạy chúng ta phương pháp thực hành để tâm tỉnh táo sáng suốt, chúng ta phải thực hành theo đó. Hôm nay trong bài học này với câu chuyện Bổn Sanh Anabhirati, chúng tôi xin được trình bày với ý nghĩa bấy nhiêu mong rằng thời pháp đem lại cho chúng ta nhiều lợi lạc và nếu như chúng ta hiểu được hoan hỉ những gì trong thời pháp thì cố gắng cùng nhau tu tập theo đó đừng để cho trí nhớ và trí tuệ bị giảm, khi mệnh chung chết với trạng thái tâm tán loạn thất niệm thì rất nguy hiểm./. -ooOoo- Với phước báu mà con tạo nên hôm nay xin hồi hướng đến hương linh của mẹ là Thái Huê, cầu mong bà được thượng hưởng phước lành và chóng viên thành đạo quả. Phật tử Thiện Pháp Nguyễn Văn Hòa và Minh Hạnh |