|
Ngày Tết ở Nhật
và Shichifukujin
(“ Bảy vị thần phước đức
”)
Vĩnh Sính
Người Nhật gọi Tết là
O-shogatsu (chính
nguyệt) – ngày lễ lớn nhất trong năm, thường được nghỉ từ
29 tháng 12 cho đến hết ngày 3 tháng 1. Ở Nhật Tết là ngày lễ đầu
tiên của rất nhiều tế lễ hội hè và người ta đă vô t́nh cho rằng
Tết là ngày đầu tiên khi mùa Xuân đến, mặc dù nước Nhật đổi từ âm
lịch sang dương lịch từ mồng 1 tháng 1 năm 1873 – tức là năm thứ 6
thời Minh Trị.
I.
Những ǵ liên hệ với
O-shogatsu thường có nghĩa
là mới nhất, nên từ O-shogatsu
c̣n có nghĩa là “đổi mới”. Giờ giao thừa, một-trăm-linh-tám hồi
chuông trừ tịch (joya no kane)
gióng lên từ các ngôi chùa làm người ta quên đi những phiền năo
trong Năm Cũ để chào mừng Năm Mới. Thiên hạ phần đông đi thăm đền,
chùa đầu năm, gọi là “Hatsumode”
; người ở vùng Tokyo thường đến
Meiji Jingu (Minh Trị Thần Cung), đền kỷ niệm Minh Trị
Thiên hoàng ở trong thành phố.
Để đón Tết, trong nhà người ta thường treo
Origami (giấy xếp) h́nh
con hạc (tsuru) và con rùa
(kame), hai sinh
vật tượng trưng cho trường thọ và hạnh phúc. Nhà cửa, phố xá
thường cắm nhành thông Kadomatsu
(môn tùng) ở cửa ra vào
nhằm “ tế thần ” trong dịp Tân Niên. Thường thường, ngoài nhành
thông, người ta c̣n thêm tre, v́
tùng (thông) và trúc
(tre) là biểu hiện của sự cường tráng, sức mềm dẻo, uyển chuyển và
tràn đầy nhựa sống.
Đồ 'ăn Tết' O-sechi
Thông thường người Nhật chuẩn bị đồ ăn cho đến
hết ngày mồng 3. Trước hết phải nói đến “ đồ ăn Tết ”
O-sechi-ryori.
O-sechi là “ Tiết ”, giống
như trong từ “ sekku ” (tiết
cú), một trong năm tiết mỗi năm (chẳng hạn như Tiết Đoan ngọ,
v.v.) ; và ryori là “ liệu
lư ”, tức là món ăn. Cũng nên nói thêm rằng chữ Tết trong tiếng
Việt cũng bắt nguồn từ chữ “ tiết ” này – một điểm khá thú vị mà
ta ít để ư. Bắt đầu từ thời Heian (794-1185) người Nhật tiếp thu
phong tục này từ Trung Hoa. O-sechi-ryori
thường để trong hộp gỗ gọi là
jubako, giống như hộp cơm
bento. Trong ba ngày đầu năm, người ta tránh dùng bếp và
nấu ăn, ngoại trừ những thức ăn đơn giản.
Từ xưa, O-sechi
gồm có những món nghe qua có vẻ dân dă, nhưng ngày nay không rẻ.
O-sechi gồm những thứ như
: Datemaki (trứng đổ chả,
thêm những gia vị khác và đổ dày) ;
kamaboko (giống như chả cá,
nhưng có thêm vào khoai từ, ḷng trắng trứng, v.v.) ;
kazunoko (trứng cá hồi,
sake)
kazu có nghĩa là số, và
ko có nghĩa là con, ăn
kazunoko sẽ may mắn về
đường con cái) ; konbu (một
loại rong biển rộng bản ; konbu
nghe giống như chữ yorokobu,
có nghĩa là vui mừng) ; kuro-mame
(đậu đen ; mame c̣n có
nghĩa là sức khoẻ), tai (cá
hồng, âm tai thường làm
người liên tưởng đến medetai,
tức là chuyện tốt lành), và
tazukuri (tức là cá xacđin khô, kho với x́ dầu Nhật là
shoyu).
Tazukuri nguyên nghĩa là “
làm ruộng ”, v́ cá xacđin (iwashi)
vốn để làm phân bón. Người ta tin rằng ăn món
tazukuri nông dân sẽ được
mùa.
Thiên hạ thích ăn ḿ sợi kiều mạch
toshi-koshi soba trong giờ
Giao thừa. Cây kiều mạch (soba)
có trồng ở miền Bắc nước ta hồi Thế chiến thứ hai.
Toshi-koshi soba có nghĩa
là “ ḿ sợi kiều mạch soba
ăn vào giờ Giao thừa ”. Người ta tin là ăn ḿ sợi
soba vào giờ Giao thừa sẽ
trường thọ và được nhiều sức khoẻ trong năm mới. Trên thực tế, món
này ít khi thiếu trong dịp mừng Xuân !
Kadomatsu
Sáng mồng một Tết, một món không thể thiếu là
mochi, giống như bánh dầy
không nhân của Việt Nam. Để làm
mochi, người ta dùng nếp, chưng thành xôi (chứ không nấu),
xong rồi giă cho thật mịn (thường giă bằng cối).
Mochi để khô sẽ cứng ra,
rồi từ đó người ta dùng mochi
để làm những thức ăn cần thiết. Chẳng hạn,
mochi thả trong nước xúp “
miso ” và ăn nóng gọi là “
ozoni ”, hoặc ăn với chè đậu đỏ (azuki)
gọi là “ shiruko ”, v.v.
Người ta rất thích ăn mochi
vào ngày Tết v́ những hạt nếp khi nấu thành xôi “ dính liền
nhau ” – một biểu tượng mà từ lâu người ta tin là ăn
mochi th́ t́nh nghĩa sẽ
hoà hợp và sợi dây đoàn kết sẽ mỗi ngày một thắt chặt và gắn bó
hơn.
II.
Trên đây chúng ta đă lướt qua vài điểm chính
của ngày Tết ở Nhật, qua đó ta thấy ít nhiều về những tương đồng
giữa Nhật và các nước láng giềng – trong đó có Việt Nam. Sau đây,
chúng ta thử xem những nét độc đáo của văn hoá Nhật Bản trong ngày
Tết qua Shichifukujin (Thất
phúc thần), hay là “ Bảy
vị thần phước đức ”, một phong tục mà các nước Đông Á khác
không có.
Sau những năm loạn lạc dài đằng đẵng mà người
ta gọi là “ Thời Chiến quốc ” (Sengoku
jidai, 1477-1573), dân chúng mong ước thái b́nh cùng những
điều may mắn tốt lành trong cuộc sống. Từ nguyện vọng đó, nước
Nhật có tục thờ Shichifukujin.
Họ tin rằng những vị thần
Shichifukujin xuống cơi trần trong đêm Giao thừa và ở lại
trong ba ngày đầu của Năm Mới.
Bởi vậy quà cho trẻ em là h́nh của các vị thần
này ngồi trên chiếc thuyền buồm
Takarabune (Bửu thuyền, tức là “
Thuyền chở của quư ”) bằng
tranh vẽ, hoặc làm bằng gỗ nhỏ nhắn, lót dưới gối khi trẻ em nằm
mơ “ thấy ” giấc mộng đầu năm (hatsuyume).
Trên thuyền có ghi bài thơ đọc xuôi đọc ngược ǵ cũng giống nhau (tiếng
Nhật gọi những bài như vậy là
kaibun, tức là “ hồi văn ”) :
“ Nagaki yo
no/tô no nemuri no/mina mezame/nami nori fune no/oto no yoki kana
”.
Tạm dịch là :
Đêm dài ngủ
giấc say sưa / Thuyền ta sóng vỗ thấy người vui sao !
Điểm thú vị là lúc ban đầu Bảy vị thần
Shichifukujin người ta cho
các em bé tấm h́nh nhỏ bé, lót dưới gối khi em bé ngủ, hy vọng em
bé sẽ nằm mơ thấy giấc mộng đẹp đầu năm, nhưng dần dần,
Shichifukujin đă trở thành
biểu tượng chiêm bái và tượng thờ để đi hành hương (Shichifukujin
meguri) đến các đền chùa vào Năm Mới của tất cả mọi người !
Khi đi hành hương người ta mang theo vật hiến
nạp. Điều quan trọng là các vật hiến nạp không được chênh lệch
nhau lắm, nếu không th́ những điều may mắn sẽ khác nhau ! Ở vùng
Tokyo, người ta đi hành hương ở nhiều chùa và đền, chẳng hạn ở
Fukagawa và Kameido thuộc Koto-ku, hoặc Kichijoji, v.v. Tục lệ này
bắt đầu từ đầu thời Edo (1600-1868) và vẫn tiếp tục cho đến ngày
nay.
Bảy vị thần
Shichifukujin là :
1. Ebisu
Ebisu (Ebisuten)
Thần Ebisu (Huệ-tỷ-thọ)
là vị thần độc nhất có gốc ở Nhật trong
Shichifukujin. Thần Ebisu
là con của Izanagi và Izanami, theo Thần đạo là hai người sáng lập
ra nước Nhật và biểu tượng của thuần chân và mang lại điều tốt
lành. Thần Ebisu nguyên là
Hiruko-no-Mikoto ở đền Nishinomiya, thuộc huyện Hyôgo, thần
phù hộ người đi biển, ngư nghiệp và thương nghiệp.
Ebisu cai quản các ngư dân và phù hộ họ với
những mảng cá đầy khoang. V́ thần Ebisu có nguồn gốc từ biển, thần
c̣n giúp cho người đi biển được an lành. Ở miền quê, vị thần này
coi quản ruộng đồng và tất cả những ǵ có dính líu đến nghề nông.
Được xem là vị thần được mến chuộng nhất trong bảy vị thần, nông
gia và doanh gia xem Ebisu như thần hộ mạng.
Biểu tượng của thần Ebisu là một con cá cực lớn,
thường là cá hồng (tai),
cá chép (koi), cá cá rô
biển (suzuki), hoặc cá
tara (có người gọi là “cá
tuyết” theo chữ Hán trong tiếng Nhật) – một loại cá ở biển Bắc.
Thần Ebisu thường buộc con cá hồng bằng sợi dây dừa rồi đeo ở tay
mặt trước ngực, hoặc cầm dây buộc cá bằng tay trái. Thần có nụ
cười hồn nhiên, bộ râu cằm cạo nhẵn nhụi, đội mũ như người đi săn.
Daikoku (Daikohuten)
2. Daikokuten
Daikokuten (Đại Hắc Thiên)
du nhập sang Nhật Bản từ Trung Hoa vào thế kỷ IX. Do tiếng Phạn là
Manhakala, theo Mật giáo
Daikokuten là hoá thân của
Tự Tại Thiên, tức là thần
thủ hộ của Phật giáo Đại Thừa có gốc từ Ấn Độ giáo. Thần
Daikokuten kính yêu tam
bảo (Phật, Pháp, Tăng) và thích ăn uống. Ở Nhật Bản, lúc ban đầu
Daikokuten là Thần Chiến
đấu và Thần Phẫn nộ, sau đó trở thành Thần Bếp, nói nôm na là “
Ông Táo trong bếp ”. Thường thường, ta thấy thần đầu chít khăn vải,
đứng trên bồ lúa; tay trái mang một cái túi lớn, tay mặt cái vồ
nhỏ bằng gỗ (uchide-no-kozuchi).
Thần
Daikokuten c̣n giúp người ta được mùa màng, hoặc may mắn
khi buôn bán, làm ăn.
3. Bishamonten
Bishamon (Bíhamonten)
Bishamonten (Tỳ Sa Môn
Thiên), viết tắt là
Bishamon, là một vị thần Phật giáo Đại Thừa có gốc từ Ấn Độ
giáo. Tên tiếng Phạn là
Vaisravana, thần
Bishamonten là một của Tứ Thiên Vương hay Thập Nhị Thiên.
Thần có dáng vẻ phẫn nộ, bận áo giáp như vơ thần, một tay cầm bửu
tháp (tahoto, đa bửu tháp)
bên tay mặt và cái mâu bên tay trái. Thần
Bishamonten ở Bắc phương
của Tu Di Sơn, lo coi giữ Bắc phương Thế giới và là người che chở
cho lẽ phải và quyền uy. Tên thần c̣n được dịch là Đa Văn Thiên.
Bishamonten
c̣n là thần tài (tượng trưng bởi bửu tháp) và thần của chiến tranh
(tượng trưng bởi cái mâu). Thần mang lại điều may trong chiến loạn
cũng như trong thái b́nh. Thần lo giữ Phật Giới và hoà b́nh trên
thế gian. Trong chùa, thần chia của cải và điều may cho những
người nghèo hoặc người xứng đáng. Nếu người ta đă ăn nên làm ra,
thần giúp họ giữ ǵn những cái ǵ họ đă có được. Điều đáng tiếc là
trên thế gian có lắm người không xứng đáng, thần thường dùng sức
mạnh để phá huỷ tài sản của họ.
4. Benzaiten
Benzaiten (Biện Tài Thiên)
hay Benten (Biện
Thiên) là nữ thần duy nhất trong
Shichifukujin, thường cầm
cây đàn tỳ bà (biwa). Thần
thường ngồi hay đứng trên lá sen, hoặc cỡi bạch long (rồng trắng),
rắn biển, hay rắn thường. Những sinh vật này thường ghen nhau, bởi
vậy các đôi nam nữ thường tránh viếng nữ thần.
Thần Benzaiten
là một trong ba nữ thần Ấn Độ, tên tiếng Phạn là
Sarasvati.
Benzaiten là thần trông
coi về âm nhạc, tài biện luận và ăn nói (biện tài), phúc trí,
trường thọ, tai qua nạn khỏi, và chiến thắng. Mặc dù thần
Sarasvati vốn là thần Ấn
Độ giáo, thần Benzaiten
được tiếp thu vào Nhật Bản cùng với Phật giáo. Những nghệ nhân, ca
sĩ, cùng những người làm quán ăn cũng thường thờ nữ thần. Thỉnh
thoảng thần Benzaiten được
hiện ra với nhiều tay (bốn tay, sáu tay hay tám tay) và có thể đàn
hay hoạ cùng một lần.
Fukurokuju(Fukurokujujin)
5. Fukurokuju
Fukurokuju
(Phúc Lộc Thọ), hay
Fukurokujujin (Phúc
Lộc Thọ Thần), là một vị thần của Lăo giáo (Đạo giáo). Thần
Fukurokuju thường biến hoá
phép lạ, đặc biệt về sống lâu và phát tài. Ngoài ra, người ta cho
Fukurokuju là thần tài,
thần của trí tuệ, của những điều may mắn, sức khoẻ, sinh lực và
sống lâu. Thần có cùng thân h́nh với
Jurojin, và hai thần na ná
giống nhau.
Thần
Fukurokuju mặc áo Tàu dài và rộng, tay chống gậy. Trên gậy
thần buộc cuốn kinh (makimono)
ghi những bí truyền về sống lâu và trí khôn của nhân loại. Tay
trái thần cầm cái quạt xếp (ogi).
Thần trán rộng, đầu hói đội mũ văn nhân, bộ râu để dài và bạc,
tượng trưng cho cao niên và trí tuệ. Bên cạnh thần
Fukurokuju thường có nai (shika),
rùa (kame), và hạc (tsuru).
Những sinh vật này tiêu biểu cho trường thọ.
Jurojin
6. Jurojin
Jurojin
(Thọ Lăo Nhân), người
Trung Hoa vào khoảng đời Nguyên Hữu (1086-1093) thời Tống. Dáng
vóc bên ngoài của thần Jurojin
trông giống như thần Fukurokuju
: một ông lăo đầu dài, râu dài và bạc phơ, tay cầm trượng, trên
đầu trượng có cuốn kinh ghi về trí khôn nhân loại và bí quyết sống
lâu. Thần là tiêu biểu của trường thọ, thần tài, của trí tuệ và
sức khoẻ. Thần thường có những sinh vật tượng trưng cho sống lâu
như nai, rùa, hạc đứng chung quanh.
Jurojin
thường được xem giống như
Fukurokujin là thần tài.
Hotei
(Hoà thượng Bố Đại)
7. Hotei
Hotei (Bố
Đại) là một Thiền tăng đời Hậu Lương. Tên là Khế Tỷ, hiệu
là Trường Đinh Tử hoặc Định Ứng Đại Sư, ngụ ở Tứ Minh Sơn. Hoà
thượng Hotei có dung mạo
phúc đức, thân h́nh to béo, lúc nào cũng mang cái đăy, bụng thường
để lộ ra ngoài khi đi khất thực. Ta thường gọi hoà thượng là “ Ông
Phật cười ”. Người ta tin Hoà thượng
Hotei là hoá thân của Di
Lặc Bồ Tát (Miroku Bosatsu).
Giống như
Daikoku, Hotei là
thần của dồi dào và may mắn. Thần cũng là thần cười và vui vẻ với
những ǵ ḿnh đang có. Bởi vậy, thần là thần viên măn trong mậu
dịch, như ta thường thấy tượng của thần để trước cửa hàng quán.
Thần Hotei thường được
người ta để thờ là một ông Phật cười với cái bụng to lớn để nói
lên cái tâm rộng răi của thần. Thần
Hotei thường cầm quạt và
mang trên vai một đăy gạo. Gạo trong đăy của thần không bao giờ
cạn v́ ḷng độ lượng vô hạn của thần
Hotei. Có khi thần ngồi
trên xe kéo bởi các trẻ đă biết ḷng vị tha của thần.
III.
Qua phong tục
Shichifukujin, chúng ta thấy những nét độc đáo sau đây của
văn hoá Nhật Bản :
1.
Người Nhật tiếp thu rất nhiều văn hoá nước ngoài. Qua
Shichifukujin, ngoài văn
hoá Nhật Bản, ta thấy họ tiếp thu văn hoá Trung Hoa và văn hoá Ấn
Độ. Chúng ta đă biết thần Ebisu
có gốc Thần đạo của Nhật Bản, rồi chúng ta cũng có
Fukurokuju, Jurojin, và
Hotei từ Trung Hoa ; sau
đó lại có Daikokuten,
Bishamonten và Benzaiten
từ Ấn Độ. Trong những vị thần đi từ Trung Hoa, thần
Hotei có gốc Phật giáo,
Fukurokuju và
Jurojin là hai vị thần Lăo
giáo. Chúng ta cũng nên để ư điểm khác nhau giữa thần
Bishamonten với hai vị
thần Daikokuten và
Benzaiten :
Bishamonten là thần của
Phật giáo, c̣n Daikokuten
và Benzaiten là thần của
Ấn Độ giáo. Cũng nên nhắc lại
Benzaiten là một nữ thần.
2.
V́
Shichifukujin bắt nguồn từ thế kỷ 16, ta thấy có phảng phất
ít nhiều ảnh hưởng của thời đó. Ví dụ,
Bishamonten (Tỳ Sa Môn
Thiên) là Thần Chiến tranh của
daimyo lừng danh Uesugi Kenshin (1530-1578) vùng Echigo vào
“ Thời Chiến Quốc ”. Kenshin vừa giỏi về binh lược lại giàu ḷng
nghĩa hiệp. Lúc tranh hùng với Takeda Shingen (1521-1573), một vơ
tướng nổi tiếng ở Shinano và Kai, Kenshin thấy quân của Shingen bị
phong toả muối bởi một đối thủ khác, ra lệnh lấy muối tiếp viện
cho quân của Shingen. Kịp đến khi nghe tin địch thủ là Shingen
chết, người ta nói Kenshin đă khóc rống lên. Bởi vậy, thiên hạ mới
đồn Kenshin là hoá thân của thần
Bishamonten. Phải chăng
Bishamonten đă được đưa vào “ Bảy vị thần phước đức ”
Shichifukujin v́ dân chúng
cảm phục và luyến tiếc Kenshin chẳng bao lâu sau khi vị tướng lănh
tài ba qua đời ?
3.
Chúng ta thấy văn hoá Nhật rất mới, nhưng cũng
rất cũ. Ngày Tết đổi qua dương lịch ngay từ đầu thời Minh Trị,
thoạt nghe có ǵ “ rất mới ”, nhưng nội dung th́ lại “ rất cũ ” và
rất truyền thống. Bởi vậy, một học giả Tây phương sau nhiều năm
nghiên cứu văn hoá Nhật Bản đă từng nói : “
Không có dân tộc nào bén nhạy đối
với văn hoá của thế giới như người Nhật trong việc tiếp thu văn
hoá nước ngoài ; mặc khác, không có dân tộc nào lại thích bảo tồn
văn hoá của ḿnh như dân tộc Nhật Bản ”. Quả thật như vậy,
cách trang hoàng nhà cửa ngày Tết như
Kadomatsu hoặc
Origami, các món ăn như
O-sechi-ryori hoặc mochi,
đối tượng chiêm bái và hành hương đến những nơi có “ Bảy vị thần
phước đức ” Shichifukujin
đều phản ánh chiều hướng đó.
4.
Cuối cùng, như chúng ta đă thấy, “ Bảy vị thần
phước đức ” Shichifukujin
ra đời ngay sau lúc nước Nhật Bản vừa bước qua một cuộc chiến dài
đằng đẵng, không tiền khoáng hậu, vào cuối thế kỷ 16. Dân chúng
mong ước an cư lạc nghiệp và những ǵ may mắn tốt lành trong cuộc
sống. Nói một cách khác, nguyên nhân của sự h́nh thành
Shichifukujin là những khổ
đau trong chiến tranh. Sau Thế chiến thứ hai, nước Nhật Bản lại
tạo được “ kỳ tích ” khác ngay từ điêu tàn của chiến tranh. Ḷng
lạc quan và tin tưởng ở ngày mai thể hiện qua khi đi hành hương
ngày đầu Xuân đến “ Bảy vị thần phước đức ”
Shichifukujin có thể nói
là một trong những điểm son của văn hoá Nhật Bản.
VĨNH
SÍNH
Giáo sư, Đại học Alberta, Canada
........
(*) Ngu?n: Trích t? www.erct.com
|
|