HÂN HOAN ĐÓN CHÀO CHƯ TÔN ĐỨC VÀ QUÝ PHẬT TỬ

Minh Hạnh biên soạn

   

Ngày 08 tháng 01, 2004

 

Câu thảo luận số 1: Xin định nghĩa các chữ thiền quán, thiền minh sát, thiền tứ niệm xứ, thiền tuệ.

 

TT Giác Đẳng : Kính bạch quí Ngài vài thưa quí vị, hôm nay chúng ta học một bài kệ, Đức Phật  Ngài thuyết ra trong một bối cảnh tương đối hết sức rơ ràng cho thính chúng biết về những gi` mà Ngài nói, do vậy Ngài đă không sử dụng ngôn từ nhiều.  Đối với chư Tỳ khưu những vị đă quen với đời sống thiền định, Đức Phật chỉ nói một vài lời, Ngài chỉ nhấn mạnh một vài điểm là các vị có thể thấy được, nhưng với phần đông của chúng ta ngày hôm nay thi` khi mà nói đến thiền định thi` phải nói rằng chúng ta có cả một rừng ngôn từ, rừng y' niệm và hầu như ngay cả những người thực hành một pháp môn thiền thôi, thi` đă có nhiều sự tranh luận với nhau về cái nào là đúng, cái nào là sai.

 

Kính bạch quí Ngài và thưa quí vị, thiền định ở Đông phương và thiền định ở tại các quốc gia Tây phương ngày hôm nay, mặc dù xuất phát từ nguồn gốc nhưng nếu chúng ta nhi`n một cách kỹ lưỡng, thi` chúng ta thấy mỗi nơi có một khuynh hướng tương đối khác biệt, cho dù sử dụng cùng một bài kinh, sử dụng cùng một pháp môn.  Chúng tôi lấy ví dụ là ở tại Đông phương của chúng ta, những pháp môn thiền nào mà có cơ sở càng li chi, càng nhiều chi tiết, thi` chúng ta nhận ra đó là một pháp môn có chiều sâu. Trong lúc đó ở tại các thiền viện Tây phương, người ta cố gắng đơn giản hoá các pháp  thiền, đơn giản đến mức độ nào mà một người vừa mới bước vào thiền đường, hay ở trong thiền đường có thể nghe trong vo`ng nửa tiếng đồng hồ là có thể bắt tay ngay vào việc thực hành.

 

Cả hai đều có một số có lợi và có một số bất lợi.  Cái lợi của xă hội Đông phương là chúng ta cân nhắc rất nhiều, đào sâu vào kinh điển ở nhiều bài kinh khác nhau để ti`m ra một y' nghĩa chân thật.  Co`n cách của người Tây phương, thiền định là một con đường thể nghiệm, trong con đường thể nghiệm đó nên bắt đầu từ bước đơn giản nhất, là làm sao để ngồi, làm sao để tập trung vào hơi thở, và những gi` tiếp theo sẽ được nói đến bởi các vị thiền Sư về sau này.  Và chính về điểm nay chúng ta không ngạc nhiên thấy rằng một số lớn những người Âu Mỹ ngày nay có thể nhanh chóng bước vào trong thiền đường, và với sự hướng dẫn hết sức là giản dị, họ có thể bắt tay ngay vào việc thực hành thiền.  Trong lúc đó người Đông phương của chúng ta đôi lúc chuẩn bị cả nửa đời người, vẫn chưa thấy có can đảm để ngồi xuống tu tập thiền định. 

 

Cách nào cũng có điểm lợi, cách nào cũng có điểm bất lợi, không có cách nào hoàn hảo hết, chỉ có cách gi` mà hợp với căn tính của mi`nh.  Đức Phật, có thể nói rằng Ngài biết được căn tính của chúng ta, co`n riêng về mỗi chúng ta thi` sanh sau thời Phật trụ thế, chúng ta chỉ có thể từng bước một dọ dẫm trên con đường mi`nh đi, để cuối cùng mi`nh có thể xác định được cái gi` thật sự có lợi cho mi`nh.

 

Thưa quí vị, trong bài kệ này đề cập đến hai pháp, chữ hai pháp ở đây nếu mà chúng ta nói ở trong sinh hoạt hàng ngày, thi` thật ra làm cho người ta đặt vấn đề là hai pháp, là hai pháp gi`, tại sao chúngta nói một cách hết sức là đơn giản như vậy, nhưng trong hội chúng thời Đức Phật co`n tại thế, thi` các vị Tỳ kheo là các vị đă quen sống với đời sống có pháp hành, các vị đă quen với đời sống tu tập mà Đức Phật giảng giải, khi mà nói lên hai pháp thi` các vị nhận ra ngay lập tức, đó là hai pháp gi` (dvayesu dhammesu) ở đây hai pháp trong sớ giải nói là hai pháp chỉ và quán. 

 

Và hai pháp chỉ và quán này không những chỉ cần định nghĩa mà chúng ta co`n có một số điểm phải nói rằng tranh luận với nhau rất nhiều tại môt số cácquốc gia Phật Giáo Nam Tông. Như Thái Lan và Miến Điện người ta vẫn có những sự tranh luật với nhau nên hay không nên hành thiền chỉ, và có người th́ chủ trương chỉ quán song tu, có người lại chủ trương chỉ riêng thiền quán  thôi, và không cần đến thiền chỉ,  Hôm nay cóđạo hữu B́nh Anson trong nick Budsas ở trong room. Đạo hữu cũng biết rằng ở trong số các đệ tử cửa Ngài Achaan Cha, với cách hành thiền của Ngà Sumedho và Ngài Achaan Brahmavamso tuy cùng một Thầy nhưng cũng có quan niệm tương đối khác biệt.  Ngài Achaan Brahmavamso thi`nói nhiều đến thiền chỉ như là một cơ sở bước đầu, co`n Achaan Sumedho đi trực tiếp vào trong pháp quán niệm xứ.

 

Dĩ nhiên chúng ta không đem hai vị đó ra để làm đề tài thảo luận ngày hôm nay, chỉ là một thí dụ đơn cử cho thấy rằng đă có những cuộc tranh luận rất gay gắt, các cuộc tranh luận gay gắt này là một thói quen mang tánh cách đại quần chúng, là hiện tượng xă hội. Như ở Việt Nam của chúng ta, người ta thường nói thiền tịnh song tu, người theo pháp môn thiền tông, người theo tịnh độ, hai môn đó ít khi gặp nhau được, tuy nhiên người ta cố gắng để làm một nhịp cầu.  Trường hợp củaThiền tịnh song tu nó không giống như chỉ quán song tu ở tại đây, bởi vi` mỗi một phương cách nó có y' nghĩa khác nhau, chúng ta hăy bắt đầu buổi thảo luận hôm nay vớ i TT Trí Siêu.

 

Kính bạch quí Ngài và thưa quí vị, chúng ta có nhiều từ ngữ định nghĩa về pháp thiền quán hay là thiền tứ niệm xứ.  Gần đây Ngài Hộ Pháp trong một số tác phẩm, đặc biệt là quyển phương pháp hành thiền tuệ, Ngài đă dùng chữ thiền tuệ để chỉ thiền vipassana, th́ nhân câu thảo luận số một, xin TT Trí Siêu điểm sơ qua một vài y' nghĩa của những chữ như là thiền quán, thiền minh sát, thiền tứ niệm xứ, thiền tuệ.v.v... để cho qúi Phật tử có vài khái niệm, và sau đó chúng ta sẽ đào sâu vào sự so sánh giữa thiền chỉ và thiền quán.  Chúng tôi hy vọng trong 45 phút mà chúng ta có được cho buổi thảo luận ngày hôm nay, ít nhất cũng cho các Phật tử sẽ có một ít y' niệm tổng quát về thiền chỉ là gi` và thiền quán là gi`.

 

Trước hết xin thỉnh TT Trí Siêu hoan hỷ cho biết y' kiến của TT về một số từ ngữ mà chúng ta chuyển dịch từ chữ vipassan: thiền quán, thiền minh sát, thiền tuệ,  và chúng ta cũng có thể thêm một chữ khác không phải dịch từ vipassana, mà cũng là vipassana đó là thiền tứ niệm xứ, xin thỉnh TT Trí Siêu.

 

TT Trí Siêu: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật:  Kính bạch chư Tôn Đức, kính bạch TT Giác Đẳng, hôm nay trong bài kệ thứ hai của phẩm BàlaMôn trong kinh Pháp Cú do ĐĐ Pháp Đăng thuyết giảng, trong bài kệ này có đề cập đến hai pháp, và theo sớ giải thi` hai pháp ở đây như TT Giác Đẳng vừa tri`nh bày cho chúng ta biết là Đức Phật đă thuyết một cách tóm tắt.  Nhưng trong hai pháp được sớ giải đề cập đến tức là chỉ và quán, trong câu thảo luận số một, chúng tôi xin được đóng góp một vài lời giải thích về các chữ như là thiền quán, thiền minh sát, thiền tứ niệm xứ và  thiền tuệ. 

 

Kính thưa quí vị, danh từ thiền quán cũng co`n gọi là thiền minh sát, ở đây có một danh từ Pali để chỉ cho hai danh từ dịch này đó là vipassana.  Chữ vipassana xuất phát từ một động từ pàli có nghĩa là thấy hay là nhi`n, nhi`n xem xét và chữ VI ở đây là giảng lược cho chữ  visesana  như vậy thi` chữ visesana có nghĩa là đặc biệt và do đó cho nên  thấy và thấy bằng cách đặc biệt thi` như vậy được gọi là quán, thấy đặc biệt là như thế nào, tức là thấy bằng cách đặc biệt, có nghĩa là thấy bằng trí tuệ, trí tuệ thấy chứ không phải con mắt thấy, nếu nhục nhăn tức là con mắt thường của chúng ta thấy thi` trong trường hợp đó chỉ là vin~n~àta chứ không phải là vipassana. 

 

Co`n ở đây khi đề cập đến chữ thiền quán, thi` chúng ta nên hiểu rằng vi` loại thiền này vị hành giả không phải định tâm trên một đề mục nào như là đề mục nghiệp xứ, mà vị hành giả cần phải quán thấy với cái trí tuệ, quán thấy sự sanh và diệt của danh và sắc, như vậy cho nên mới gọi là thiền quán.  Nhưng ở đây sau này lại có một từ dịch khác tức là minh sát, chữ minh có nghĩa là sáng suốt nó cũng đồng nghĩa với trí tuệ, co`n chữ sát tức là xem, sát có nghĩa là thấy, như chữ quan sát v.v... thi` như vậy chữ minh sát cũng có nghĩa là thấy bằng trí tuệ hay là thấy bằng sự sáng suốt, nhận chân sự thật, nhận chân thực tính của danh và sắc, thi` như vậy đó là một danh từ để chỉ cho thiền tứ niệm xứ.

 

Bây giờ chúng ta lại nói qua danh từ gọi là thiền tứ niệm xứ. Thật ra thiền tứ niệm xứ cũng là thiền quán hay là thiền minh sát, nhưng vi` đối với thiền quán dựa trên đề mục bốn niệm xứ, mà phát triển  tu tập, nên thiền quán hay thiền minh sát cũng được gọi là thiền tứ niệm xứ, là do lấy theo đề mục phát triển thiền này nên gọi là thiền tứ niệm xứ. Chữ tứ niệm xứ ở đây tức là niệm thân, niệm thọ, niệm tâm,niệm pháp, hay là thân quán niệm xứ, thọ quán niệm xứ, tâm quán niệm xứ, và pháp quán niệm xứ.

 

Niệm thân tức là lấy sắc uẩn làm đề tài để suy niệm, để quán xét, như là hơi thở ra hơi thở vào, hoặc là chánh niệm tỉnh giác đối với sự đi, sự đứng , sự nằm, sự ngồi hoặc là có chánh niệm ghi nhận quán xét về thân thể trược v.v..Như vậy gọi là lấy sắc uẩn làm đề tài, niệm thọ tức là chánh niệm tỉnh giác đối với các cảm thọ như là thọ khổ, thọ lạc, thọ hỷ, thọ xả.

 

Niệm tâm tức là chú y' chánh niệm tỉnh giác đối với tâm sân, hay thức uẩn, tức là nhận biết được rơ ràng về tâm thiện hay tâm bất thiện đang sanh, do nhân nào mà nó sanh ra và cho đến khi nào nó không sanh trưởng nữa, trong trường hợp đó gọi là tâm quán niệm xứ.

 

Pháp quán niệm xứ tức là dùng trí tuệ để suy niệm những đề tài như ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới, hoặc ngũ triền cái, hay thất giác chi, bát chánh đạo, tức là suy sét y' nghĩa của từng pháp môn, thi` như vậy gọi là tứ niệm xứ, do tu tập, dùng tứ niệm xứ làm đề tài nên loại thiền quán này cũng co`n gọi là thiền tứ niệm xứ.

 

Và bây giờ khi chúng ta đề cập đến thiền tuệ, danh từ này cũng để chỉ cho thiền quán, thiền minh sát, ở đây thưa quí vị, như chúng tôi đă nói là quán thấy, quán sát bằng trí tuệ hay quán xét danh và sắc một cách đặc biệt, tức là thấy bằng trí chứ không phải thấy bằng mắt thường, và trong trường hợp này chúng ta cũng nên hiểu là đối với thiền quán đặt nặng vấn đề phát triển tuệ, vi` khi có trí tuệ mới có thể chánh niệm tỉnh giác.  Đối với các đề mục và có sự phân tích kỹ lưỡng, chúng ta cũng nên nhớ rằng đối với thiền sắc và vô sắc, hay là thiền chỉ tịnh  thi` chỉ đặt trọng tâm ở chỗ đắc định mà thôi, nhưng đối với thiền quán hay thiền minh sát thi` phải phát triển về tuệ, mà chúng ta gọi là tuệ minh sát hay là tuệ quán, những tuệ đó nắm bắt pháp chân đế, tức là thấy sự sanh diệt của danh sắc, ngộ được ly' vô thường, và khi đă nhàm chán, đă sợ hăi cái hiện trạng của sự luân hồi, hiện trạng khổ của sự luân hồi, thi` vị này sẽ đạt đến tuệ đạo, tuệ quả và tuệ phản kháng, và do vậy cho nên khi dựa trên cái tính chất hay là mục đích của thiền mà gọi là thiền tuệ.

 

Như vậy nói tóm lại chúng ta có bốn danh từ, thi` hai danh từ trước thiền quán nói một cách đơn giản, nói một cách ngắn gọn, nhưng nói cho rơ hơn thi` phải gọi là thiền minh sát cả hai từ này đều dịch từ chữ vipassana.  Co`n riêng về thiền minh sát hay là thiền quán mà gọi là thiền tứ niệm xứ vi` y cứ trên đề mục mà thiền này tu tập phát triển, co`n nếu gọi là thiền tuệ là dựa trên mục đích của thiền mà gọi, bởi vi` đối với thiền quán, thiền minh sát đặt trọng tâm ở chỗ là làm như thế nào đó để thành tựu được trí tuệ thấu triệt được danh sắc, hay là trí tuệ trong đạo quả, cho nên ở đây mặc dù chúng ta có bốn danh từ để gọi, nhưng mà bốn danh từ này đều ám chỉ cho thiền quán cả, không có cái gi` khác, và chỉ tùy theo khía cạnh mà đặt tên gọi v.v...

 

Chúng tôi xin được góp y' một vài định nghĩa theo lời yêu cầu của TT Giác Đẳng, thi` sự đóng góp của chúng tôi là như vậy.  Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Minh Hạnh biên soạn

   Trở lại câu hỏi

Trở lại trang Pháp Đàm