HÂN HOAN ĐÓN CHÀO CHƯ TÔN ĐỨC VÀ QUÝ PHẬT TỬ

   

Câu Thảo Luận Ngày 16/11/2003

 

Kệ Ngôn 294 & 295: Thảo Luận Về Thường Kiến Và Đoạn Kiến

 

TT Giác Đẳng hỏi :

 

Có lẽ quí vị rất ngạc nhiên khi thấy TT Trí Siêu đă phải vận dụng lời rất nhiều luận cứ lấy từ kinh điển ATyDàm ra để trả lời, bởi vi` ở đây chúng ta có một quan niệm khi chúng ta nêu lên vấn đề thường kiến, đă khiến cho TT Trí Siêu phải dùng rất nhiều  quan điểm để trả lời. 

     

Bởi vi` trong thân kiến nó đi vào cả hai chi pháp, hai tâm sở.  Hai chi pháp này với một người thường nghe dường  như nó là một, nhưng đối với AtyĐàm nó phải phân hai rất rơ ràng, đó là tà kiến và ngă mạn, tại sao phải phân hai, bởi vi` một vị ngă mạn không nhất thiết vị đó là tà kiến, TT Trí Siêu đă nói rất rơ là một vị Tu Đà Hườn không thể có tà kiến được, tại vi` vị đó đă đoạn tận thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ. 

    

Nhưng gọi là ngă mạn thi` phải nói đến vị thánh, gọi là thánh tứ quả, 5 kiết sử sau cùng đọan tận tức là sắc, vô sắc ái, ngă mạn, phóng dật và vô minh, thi` như một vị thánh hoàn toàn đoạn tận phiền năo, thánh tứ quả mới có thể chấm dứt ngă mạn, tà kiến thánh sơ quả thi` phải đoạn diệt do đó trong ATỳĐàm đó là một điểm rất quan trọng, là phải có một sự phân biệt rơ giữa tà kiến và ngă mạn như vầy. Nhưng ở đây khi chúng ta nói về thân kiến, chúng ta biết rằng thân kiến là cái nhi`n sai lạc về tôi về ta và đặc biệt là về 5 uẩn, ví dụ như sắc uẩn là ta, ta là sắc uẩn, trong sắc uẩn có ta, trong ta có sắc uẩn, thọ tưởng hành thức cũng tương tự như vậy.

   

Thi` quí vị thấy rằng trong quan niệm thường thức hàng ngày của chúng ta nó rất dễ dàng để hai điều này nói về quan niệm ngă chấp, vừa  quan niệm về bản ngả, vừa quan niệm về tà kiến đi chung với nhau, nhưng đối với tạng ATỳĐàm th́ việc đó là việc phải phân biệt.

      

Khi năy chúng tôi cũng có đề cập đến sự việc liên quan đến câu thảo luận đầu tiên là tại sao ở đây chúng ta đề cập đến ái dục và mạn, thay vi` chúng ta đề cập đến ái dục và vô minh, thi` thưa quí vị nội dung của bài kệ này theo trong sớ giải đề cập đến sự thân thiết của chúng ta trong đời sống này, và chúng ta cũng khó nói rằng mi`nh thân thiết với sự vô minh, và thương yêu sự vô minh , nhưng chính vi` sự thân thiết của chúng ta đối với ái, đối với mạn nên chi nó đă tạo ra rất nhiều thứ và thật sự chúng ta cũng là sản phẩm của ái và mạn.

     

Chúng tôi lấy ví dụ là chúng ta thích một cái gi` đó, chúng ta có thể dễ dàng biến mi`nh trở thành sản phẩm của sự ưa thích đó. Hoặc giả chúng ta nghĩ mi`nh là thế này, mi`nh là ông này, mi`nh là bà kia, do vậy cả tiến tri`nh trong đời sống chúng ta nó được xây dựng, nó được tạo ra bởi cả hai thứ này, thi` phải nói rằng đây là một điểm hết sức tế nhị ở trong Đạo Phật  khi chúng ta đề cập đến sự phân biệt, sự khác biệt giữa ngă mạn và tà kiến, chúng tôi sẽ trở lại điều này trong lát nữa.

     

Trong câu thảo luận thứ hai này chúng tôi có nêu lên, nếu có cái nhi`n sai lầm đến từ bản năng tự nhiên thi` có gọi là tà kiến chăng, sở dĩ chúng tôi nhờ Sư Uyên Minh giảng câu này là vi` khi chúng ta đă gọi quan niệm tà kiến, tà kiến là khi chúng ta nói những người đi theo tà giáo, đi theo tà đạo, khi họ đi theo tà đạo, tà giáo thi` nó có cả một cái nhi`n sai lầm, một chủ y' sai lầm, một sự giáo dục sai lầm, khi quan niệm của chúng ta gọi là tà vạy, thi` quan niệm đó hiển nhiên nó phải rơ ràng lắm.

     

Nhưng khi Đạo Phật nói đến thường kiến và đoạn kiến, thi` thường kiến và đoạn kiến nó tế nhị, nó không phải giống như chúng ta nói tà ma ngoại đạo, hay chúng ta  nói tà giáo, không đơn thuần như vậy, nó là một vấn đề rất mật thiết với cái bản năng với cuộc sống của chúng ta, khi chúng ta nói đến thường, nói đến đoạn, và đây là một trong những cái rất khó hiểu đối với một người ở bên ngoài khi nói về tà kiến.

    

Chúng tôi có thể làm cho quí vị giựt mi`nh  để cho quí vị thấy một điều rằng, ngay cả quan niệm về đoạn kiến, chúng ta người Phật tử ít có đoạn kiến, nhưng chúng ta có chứ không phải là không có, và quan niệm thường kiến thi` nó rất là thường xảy ra, ở trong đời sống của chúng ta những người Phật tử, kể cả những người Phật tử mà đă quy y Tam Bảo, nhưng không khéo th́ vẫn co`n có quan niệm về thường kiến, như  trong một bài kinh Đức Phật Ngài dạy trong Trung Bộ Kinh, Đức Phật Ngài đề cập đến một Tỳ kheo, vị này đă có quan niệm sai lầm về thường kiến  khi đề cập đến luân hồi. Xin Sư Uyên Minh hoan hỷ giúp soi sáng cho một điểm, Sư hoan hỷ giải cho một điểm về chữ thường kiến và chữ đoạn kiến được hiểu như thế nào trong Đạo Phật.

     

ĐĐ Uyên Minh giảng :

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật: Con là Uyên Minh xin kính đảnh lễ tất cả Chư Tăng và kính chào đại chúng  trong room.  Theo nội dung đại thể mà chúng ta tổng kết được từ bài kinh Phạm Vơng, th́ toàn bộ những cái tri kiến sai lầm của chúng sanh trong đời được Đức Phật Ngài gom chung lại trong 62 tà kiến, mà trong 62 tà kiến đó sở dĩ kể 62, là bởi vi` kể đến những trường hợp sai biệt, những nguyên nhân, những động cơ nào dẫn đến hiểu sai đó và từ đó nó dẫn đến con số 62 nhiều như vậy, và gom chung lại thi` hết tất cả tà kiến của chúng sanh, của vô lượng chúng sanh trong đời chỉ nằm trong số 62 đó, nó chỉ la` trường hợp diễn dịch rộng răi ra từ 2 cái tà kiến chánh đó là thường và đọan.

    

Sự hiểu biết của Uyên Minh là chỉ tŕnh bày hai vấn đề thôi, thứ nhất thế nào là tà kiến, bởi vi` Uyên Minh vừa gợi ư từ câu thảo luận số 2 là có một cái nhi`n đến từ bản năng tự nhiên là tà kiến hay chăng.

     

Ở đây trước hết theo chỗ con được biết thi` tà kiến có nghĩa là hiểu sai lầm, thấy sai lầm thấy không đúng, mà cái sai lầm đó, cái thấy không đúng đó nó phải có nó phải có nội dung đi ngược lại, hoặc là mâu thuẫn, hoặc là tương phản, hoặc là đối lập với hai vấn đề chánh đó là thuyết nhân quả, nguyên tắc nhân quả và nguyên tắc tam tướng.

    

C̣n nếu mà một cái hiểu sai nào đó không dính liú, không liên quan, không mâu thuẫn lại với nguyên tắc tam tướng và nguyên tắc nhân quả thi` sự hiểu sai đó không bị xem là tà kiến, trước hết định nghĩa như vậy, chẳng hạn như một vị tu sĩ không có kiến thức sâu rộng về toán về hoá, hoàn toàn có thể có kiến chấp sai lầm, computer hiểu sai lầm, máy móc về động cơ về điện về nước về các hiện tượng thiên nhiên v.v...

  

Tất cả những gi` mà nó không đi ngược lại với những nghịch ly', những hiểu lầm nói cụ thể ra những hiểu sai mà nó không có chống lại với nghiệp ly', tức là nghiệp ly' ở đây là làm thiện nó cho ra quả hạnh phúc, làm ác thi` nó cho ra quả đau khổ, đó là nguyên tắc muôn đời rồi, cái hiểu sai nào mà chống lại nguyên tắc này thi` gọi là tà kiến, cái thứ hai nữa vạn pháp phàm có sanh thi` phải có diệt, bất cứ một tư tưởng nào, suy tư nào mà sai lầm, mà sai lầm đó nó có nội dung đi ngược lại nguyên tắc tam tướng thi` cũng bị xem là tà kiến, c̣n cái hiểu lầm nào không có trống trái, không có đi ngược lại với hai nguyên tắc nghiệp lư và tam tướng thi` cái đó không phải là tà kiến.

    

Đó là trước hết định nghĩa về tà kiến chung vậy, đó là câu định nghĩa về tà kiến nó là tiền đề dẫn đến định nghĩa thứ hai về hai loại tà kiến mà TT Giác Đẳng đề nghị con tri`nh bày đó là thường kiến và đoạn kiến, thi` ở đây chúng ta tóm gọn lại toàn bộ 62 tà kiến ở trong kinh Phạm Vơng, thi` đó là thường và đoạn.

     

Thường kiến ở đây là căn bản chỉ cho hai trường hợp, tức là trong đó thường kiến Đức Phật phân tích rất rộng và Ngài dẫn giải ra rất  nhiều lư do, rất  nhiều nguyên nhân, rất nhiều  ti`nh huống nào dẫn đến cái hiểu sai ra những ngộ nhận này, nhưng ở đây nói gọn lại thi` thường kiến có hai loại,  đó là tin tưởng vào một cái tôi, một cái ta, ở trong sớ có sài hai chữ mà con rất là thích lại với chữ manankara và ahàmkàra.   Ahàmkàra tức là chấp ngă cho đó là tôi, c̣n manankara là của tôi, thi` thường kiến nó có hai vấn đề nổi bậc.

           

            Thứ nhất nó là tin tưởng vào sự tồn tại của một cái tôi trong một hính thức nào đó dầu là cái tôi đó qua h́nh thức, dầu đó là hi`nh thức mi`nh chấp về sắc, về thọ, về tưởng, về hành về thức, hoặc có những người không hề biết gi` về các khái niệm về uẩn xứ giới đế, nhưng mà họ chỉ biết đến hai khái niệm vật chất và tâm linh thôi, nhưng mà họ ti`m cách họ nghĩ rằng ở trong đó nó có một cái gi` đó nó đơn thuần, bất biến nó trường cửu, nó luân lưu từ đời này qua đời khác, nói chung là nó có một cái gi` đó, xin gạch dưới chữ cái gi` đó thay vi` pháp hữu vi cần phải được hiểu  theo nguyên tắc duyên khởi của Đạo Phật tức là phàm vạn pháp nó sanh và diệt do nhân duyên.

     

Như chúng ta cũng biết là trong ATỳĐàm, cái trường hợp đơn giản nhất là tâm uẩn tâm thức nó cũng phải có đến bảy sở hữu phối hợp mới có được, mới ra được tâm ngũ uẩn tâm thức, chứ không có cái gi` một mi`nh nó mà có được tồn tại một cách độc lập mà không cần nhân, không cần duyên, thi` chuyện đó  không có, mà thường kiến thứ nhất là tin tưởng vào một cái gi` đó mà tự nó sanh diệt hoặc là nó không có, nó chỉ có sanh mà không có diệt, hoặc là không có biết gi` đến khái niệm duyên khởi, duyên sinh của nó.  Trường hợp thứ nhất là trường hợp tin tưởng vào một cái tôi, một cái ta hằng cửu bất biến không có dính liú gi` đến nguyên tắc duyên khởi.

           

            Thứ hai là tin tưởng vào sự tồn tại, sự hiện hữu của một thượng đế chí tôn nào đó có quyền ban phước tha tội và có khả năng sáng lập ra muôn loài vũ trụ, muôn loài vạn vật và kể cả vũ trụ trời đất trăng sao hoa lá v.v..

   

Như vậy nói gọn lại thường kiến có hai loại, một là tin tưởng vào một cái tôi, một cái ta trong bất cứ hi`nh thức nào, thứ hai đó là tin tưởng vào sự hiện hữu tồn tại của thượng đế trí tôn, dầu có thể thượng đế đó là một hi`nh ảnh nhân cách hoá của một thực thể siêu hi`nh nào đó chẳng hạn, thi` dầu sao đi nữa thi` ở đây vẫn nói gọn lại là thường kiến hai hi`nh thức hiểu sai, hi`nh thức thứ nhất là tin tưởng chấp nhận vào cái việc tồn tại của một cái tôi cái ta mang tánh cách cá nhân trực tiếp vào mi`nh nội phần.

     

Co`n trường hợp thứ hai đó là tin tưởng vào sự  hiện hữu, sự tồn tại một thượng đế thi` đó là hai hi`nh thức của thường kiến mà con rút gọn từ kinh Phạm Vơng và thế nào là thường  kiến, thường kiến từ chữ Phạn la` sassataditthi, chữ sassataditthi rất là rộng, một nghĩa là có, là chấp có, thứ hai có nghĩa là thường thường hoặc thường hằng trường cửu lâu dài thi` gọi là chữ sassataditthi và chữ sassataditthi này là một chữ mà chỉ ngoài Phật Giáo mà thôi, một là chữ   nicca, chữ   sassataditthi là do chúng sanh giả lập ra mà có, chứ không có trên đời này không có cái gi` đúng nghĩa của nó là sarat     nicca là không có hai chữ này, cũng giống như mi`nh sài chữ bánh vẽ, bánh vẽ là một từ ngữ khái niệm mà thôi, thật ra trên đời này không có bánh nào gọi là bánh vẽ cả, thi` chữ đó không có.

 

Đó là con xin nhắc lại về khái niệm thường kiến, co`n đoạn kiến từ chữ Phạn là chữ ucchedaditthi từ căn Pali có nghĩa là cắt chặt đốn bỏ đi thi` ở đây trong 62 tà kiến Đức Phật Ngài phân tích rất nhiều trường hợp đoạn kiến nhưng mà gom gọn lại thi` đoạn kiến gồm có ba trường hợp đó là vô nhân kiến, vô hành kiến, và vô hữu kiến.

    

Vô nhân kiến là không tin tưởng gi` về các nhân duyên mà sanh trưởng của các pháp, không biết được các pháp sanh và diệt do nhân duyên thi` được gọi là vô nhân kiến, co`n vô hành kiến là không tin tưởng vào nghiệp ly' cho rằng làm thiện làm ác không có kết quả gi` hết, co`n vô hữu kiến là cho rằng không có kiếp trước, không có kiếp sau, không có luân hồi không có quả báo gi` hết cả, toàn bộ cái gọi là đoạn kiến ở đây là chỉ cho ba thứ này là vô nhân kiến, vô hành kiến và vô hữu kiến, không tin tưởng vào kiếp trước kiếp sau, không tin tưởng vào sự hiện hữu, sự tồn tại của các loài chúng sanh khuất mày khuất mặt đó là hoá sanh, không tin tưởng sự chứng đắc của các vị Samôn, BàLaMôn, Tu hành chân chánh ở đời, không tin tưởng vào quả báo của những thiện sự và quả báo của các ác nghiệp, thi` đó gọi là vô nhân kiến, vô hành kiến, vô hữu kiến.

    

Vừa rồi con trước hết con định nghĩa thế nào là tà kiến, tà kiến là hiểu sai mà nó có nội dung đi ngược lại, mâu thuẫn lại với hai nguyên tắc căn bản đó là ly' tam tướng và ly' nghiệp báo.  Thứ hai con định nghĩa về đoạn kiến và thường kiến, thường kiến có hai loại là sự tin tưởng vào một cái tôi hàng tại trường cửu, thứ hai là tin tưởng vào sự tồn tại của một thượng đế.

    

Thứ ba định nghĩa về đoạn kiến có ba phần đó là vô hữu kiến, vô hành kiến và vô nhân kiến.

    

Con hy vọng rằng cách nói của con có thể không được mạch lạc làm cho một số vị khó nhớ, nhưng về nội dung thi` con không đến nỗi là thiếu hoặc là sai, con xin thỉnh Chư Tăng bổ khuyết. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Minh Hạnh biên soạn

   Trở lại câu hỏi

Trở lại Trang Truoc

   Trở lại Trang Pháp Đàm