HÂN HOAN ĐÓN CHÀO
Câu hỏi ngày 16 tháng 11, 2003
Ngày
16/11/2003 câu thảo luận của kệ ngôn 294 & 295
TT
Giác Đẳng : Bây giờ chúng tôi sẽ bắt đầu buổi
thảo luận ngày hôm nay, trước nhất xin thưa
với TT Trí Siêu. Thưa TT Trí
Siêu cái ngă tính ở trong cuộc sống của chúng ta, cái
ngă tính người ta thường quan niệm đơn
giản, đó là mi`nh tự ái bị tổn thương,
hay là con người mi`nh tự lo lấy mi`nh rất
nhiều, hoặc giả là chúng ta thường quan niệm
rằng cái này là tôi, của
tôi đó thi` cái đó gọi là quan niệm về ngă. Nhưng Thượng Tọa có
thể soi sáng cho Phật tử biết một vài khía
cạnh liên quan đến ngă ở trong đời sống
mà qua quan niệm về thân kiến được hay
không. Bởi vi` từ quan
niệm về thân kiến thi` chúng ta mới có thể
đi xa hơn được, ví dụ như chúng ta nói
rằng sắc là ta, ta là sắc, ở trong sắc có ta,
trong ta có sắc chẳng hạn, thọ tưởng hành
thức cũng vậy.
Thượng Tọa hoan hỷ
có thể soi sáng cho Phật tử vài quan điểm về
thân kiến và sau đó chúng ta sẽ tiếp tục bàn qua
tà kiến tiếp theo. Xin cung
thỉnh Thượng Tọa.
TT
Trí Siêu giảng : Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, kính bạch
TT Giác Đẳng cùng Chư Tôn Đức và tất cả
quí vị Phật tử,
Ở đây, kính bạch Thượng Tọa và
thưa quí vị, chấp ngă
hay là(sakkàyaditthi) thuộc về thân kiến, pháp
triền hay là kiết sử, thằng thúc, mà khi đối
vị Tu Đà Huờn, tầng thánh đầu tiên là đă
đoạn trừ được thân kiến, như
vậy thi` ở đây danh từ gọi là thân kiến nó
có liên hệ đến sự chấp ngă, mà như chúng ta
đă biết là thân kiến đối với ngũ
uẩn nó có đến 20, bởi v́ đối với
sắc uẩn có bốn, thọ uẩn, tưởng
uẩn, hành uẩn, thức uẩn, mổi một uẩn
đều chấp theo bốn cách, sắc uẩn là ta, ta là
sắc uẩn, trong sắc uẩn có ta, trong ta có sắc
uẩn. Thi` ở đây trong
khía cạnh ngă chấp này, ngay trong đời sống
hiện tại của chúng ta nó được thể
hiện qua hai cách, khi chúng ta một kẻ phàm phu vi` không
hiểu biết được thực tánh của Pháp,
vốn rỗng không, do duyên khởi, do duyên hệ, do
năng duyên mà tạo ra sở duyên trong các pháp hữu vi, cái
này có thi` nó sẽ sanh trợ cho cái kia có, năng duyên
trợ cho sở duyên sanh ra, chỉ có như vậy, và khi
nào không có năng duyên thi` không có sở duyên, sở duyên
ở đây ám chỉ cho toàn bộ pháp hữu vi.
V́ không hiểu
được rơ như vậy cho nên khi thấy, khi nghe,
khi ngửi, khi nếm, khi đụng, khi cảm thọ,
hoặc khi toan tính điều thiện hay điều
bất thiện, và khi nhận thức cảnh sắc,
cảnh thinh, cảnh hương, cảnh thí, cảnh
vị, cảnh xúc, hoặc là ngay thân tứ đại này
kẻ phàm phu có sự hiểu lầm và họ chấp liên
hệ bản ngă vào trong đó, như vậy sự
chấp này hết sức là nguy hiểm, đây mới
thật sự là ( Sakkàyaditthi) thân kiến.
C̣n như đối với
một vị Tu Đà Hườn mà chúng ta gọi là ngă
mạn, thật sự ra nếu chúng ta dịch là ngă
mạn có gắng liền với sự ngă vào trong đó
thi` điều này có lẽ
không đúng, bởi vi`
chữ ( màna) một cách đơn thuần tức là
sự so sánh, một sự so đo giữa đây và kia,
giữa chỗ này và chỗ khác, thi` như vậy
đối vị Tu Đà Hườn, Tư Đà Hàm, A Na
Hàm, các bậc thánh hữu học vẫn chưa diệt
trừ được ngă mạn, cho nên trong vấn
đề này chúng ta cần phải hiểu danh từ ngă mạn
ở đây chỉ là danh từ tạm cho chữ mana là
mạn mà thôi, tức là sự kiêu hănh hay là sự tự hào
chỉ là như vậy.
Chữ ngă mạn ở đây nó không giống
như chữ (atimannanà) tức là mạn có sự tự hào
rằng tôi là, có gắng liền với chữ tôi là, thi`
trường hợp này nó liên hệ đến thân
kiến, đối với vị Tu Đà Hườn
trở lên, bậc hữu học không hề có bởi vi`
đă đọan trừ thân kiến, cho nên từ ngă
mạn ở đây chúng tôi nghĩ rằng chúng ta cần
phải xét lại khi chúng ta nói đến 5 thượng
tuần kiến sử , ái sắc, ái vô sắc, ngă mạn
phóng dật và vô minh. Vi`ngay
cả vị Tu Đà Hườn bậc hữu học
thấp nhất cũng đă diệt trừ thân kiến
rồi thi` không có sự chấp thủ về ngă, ngă
sở, ngă đắc ở đó, đó là một
điểm mà chúng tôi xin được gợi y'.
Điểm thứ hai nữa
là trong đời sống bi`nh nhật, có đôi lúc không
phải là chúng ta rơi vào ti`nh trạng thân kiến,
nhưng mà ngay trong lúc chúng ta có sự kiêu hănh, có sự
tự hào, có sự so đo, có sự so sánh hơn thua, thi`
trong trường hợp đó mạn sanh khởi, mà
mạn này có mặt trong tâm tham ly tà, thi` khi mạn sanh
khởi, mạn tương ưng với tâm tham thi` lúc
bấy giờ ly tà tức là không có tà kiến phát sanh.
C̣n ( sakkayaditthi) là thân kiến
hay là chấp ngă trong ngũ uẩn thi` đó thuộc tà
kiến, ở đây chúng ta cần phải lưu y'
để chúng ta phân biệt cân nhắc được, lúc
nào chỉ có mạn mà không có tà kiến, c̣n lúc nào có tà
kiến chấp ngă mà không có mạn, bởi vi` tà kiến
tâm sở và mạn tâm sở nó không thể đi chung
với nhau được, cái này có thi` vắng mặt cái
kia, cái kia có thi` vắng mặt cái nọ, do đó cho nên
ở đây chúng tôi nghĩ rằng khi chúng ta dịch
từ gọi là ngă mạn, trong trường hợp chúng ta
gán ghép như thế đó thi` có lẽ là chúng ta dễ
bị nhầm lẫn, đó là vấn đề thứ hai
chúng tôi xin được gợi y'.
Và vấn đề thứ ba
chúng ta phải biết rằng đối với danh
từ tôi hay ta ở đây, khi mà được sử
dụng trong vị trí của cú pháp, của ngữ pháp
chỉ cho ngôi thứ nhất, trong đại từ ngôi
thứ nhất, tôi hay chúng tôi, thi` trong trường hợp
này có đôi lúc chỉ sử dụng trên vấn đề
tục đế, từ ngữ tục đế thôi, hoàn
toàn trong khả năng trí tuệ của vị đó không
nghĩ tới, không có sự cố chấp, ở
trường hợp này thi` chắc chắn không thể
xảy ra đối với Đức Phật và Chư
vị A La Hán khi mà các Ngài thuyết giảng, các Ngài nói,
Như Lai dạy cho các ngươi, hoặc là ta dạy cho
các ngươi như thế này, như thế này v.v...
Th́ trong trường hợp
Đức Thế Tôn Ngài sử dụng đại từ
ngôi thứ nhất để ám chỉ cho Ngài, thi` trong
trường hợp chúng ta phải biết rằng không có
liên hệ đến vấn đề ngă chấp thủ,
hay là có sự thân kiến ở đó, đối với vị
ALaHán cũng vậy, trong đời sống hàng ngày của
chúng ta , kẻ phàm phu khi chúng ta sử dụng từ
ngữ tôi là, ta là, có những trường hợp đó
chúng ta cũng không nên vội vàng gán ghép kết luận
rằng, đó là trường hợp ngă chấp thủ hay
thân kiến, bởi vi` có đôi lúc chỉ thoáng qua và sử
dụng từ tục đế như trong trường
hợp một tâm thiện sanh khởi, thi` trong tâm thiện
chúng ta biết là tâm sở ngă mạn và tâm sở tà kiến
không có mặt ở đó, bởi vi` không thể nào tâm
đại thiện mà tương ưng với tâm sở
bất thiện, nhưng mà vi` trong trường hợp này
phải sử dụng đến từ tục đế
để chỉ cho ngôi thứ nhất, khi giao tiếp
với người khác, ngôi thứ hai. Do vậy cho nên ở đây tâm đại
thiện vẫn tạo ra sắc tâm về khẩu biểu
tri, và lúc đó cũng dùng cái từ tôi ta v.v...nhưng trong
trường hợp đó hoàn toàn không liên hệ
đến vấn đề thân kiến hay là ngă chấp
thủ.
Ở đây có ba vấn
đề chúng ta cần lưu y' như vậy, chúng tôi xin
được góp y' bấy nhiêu đó, không biết sự
góp y' này có đem lại lợi ích an lạc cho đại
chúng trong khi nghe pháp hay không,
nhưng chúng tôi tùy theo khả năng, tùy theo sự hiểu
biết của ḿnh để tri`nh bày như vậy, mong
Thượng Tọa Giác Đẳng hoan hỷ có
điểm nào cần góp y' xin Thượng Tọa tri`nh bày
thêm
Minh Hạnh biên soạn