HÂN HOAN ĐÓN CHÀO CHƯ TÔN ĐỨC VÀ QUÝ PHẬT TỬ

   

Câu 182, Kệ Ngôn 281, ngày 05 tháng 11, 2003

Phẩm 20 : Hành Tŕnh - Phẩm Đạo (Maggavagga) - Kệ Ngôn 281 giảng ngày 05/11/2003

                                                Nghiệp Thanh Tịnh Chứng Đạo

                                                  

                                                   Giữ lời, hộ pḥng ư

                                                   Thân không làm bất thiện

                                                   Hăy thanh lọc ba nghiệp

                                                   Chứng đạo thánh nhân thuyết

 (Bản Việt dịch của TT Trí Siêu)

TT Giác Đẳng giảng : Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. kính đảnh lễ Chư Tôn Đức, và thân chào quí Phật tử. Chúng ta đi hăy vào bài học hôm nay là kệ ngôn 281, bài kệ này đúng ra th́ không khó hiểu đối với nhiều Phật tử, nhưng bài kệ này cũng giống như nhiều bài kệ khác mang ư nghĩa tương tự, cho chúng ta một cái nh́n hết sức đặc biệt liên quan đến giáo lư của Đức Phật đối với các nhân sinh. 

     Con người hay chúng sanh sống trên đời này được hiểu trong chỗ thấp hèn và cao quư mà chúng ta thường nói và chúng ta nh́n vào cái phẩm vị, dù đó là cái do phần ở trong đạo hay là ở ngoài đời, cho dù đó chúng ta có thể nói rằng từ phương diện về văn hoá cho đến đạo giáo rồi đến xă hội ở bên ngoài, chúng ta có nhiều cách để đo đạc con người, đo đạt chúng sanh ở trong đời này thế nào là cao thế nào là thấp.

     Thật ra người Phật tử cũng hay quen có cái nh́n như vậy, ví dụ như chúng ta nói rằng Đạo Phật nói đến nhân thừa, thiên thừa, thinh văn thừa, bồ tát, duyên giác v.v...Đó cũng là một cách nh́n của chúng ta, nhưng nếu chúng ta đọc kinh điển th́ chúng ta cũng phải nhận ra một điều rằng Đức Phật có một cách nh́n về chúng sanh ở trong đời hết sức đặc biệt, đó là nh́n vào sở hành, sở hành tức là hành hoạt, là thể hiện của ba nghiệp thân, khẩu và ư.

     Lời nói hành động và ư tưởng nó làm cho chúng sanh cao quí hay thấp hèn, v́ vậy khi chúng ta đề cập đến sở hành hay  chúng ta nói đến cái hành vi tạo tác, chúng ta thấy rằng ở đây không phải chỉ có giá trị về phương diện nghiệp quả, mà qua đó Đức Phật Ngài cũng cho chúng ta một cái nh́n mới.  Lấy ví dụ như vầy, chúng ta không thể đem một người có bằng cấp đại học để so sánh với một em bé đi học lớp ba, lớp tư ở trong trường, tuy nhiên chúng ta có thể nói rằng nếu một người mà ba bốn mươi tuổi không học chịu học nữa, họ đâm ra lười biếng, thấy sách vở ngao ngán không học nữa, và đối với một em học sinh tuy rằng tŕnh độ không cao, nhưng em vẫn cố gắng tích cực để học th́ Đức Phật Ngài vẫn khen ngợi thái độ tích cực , chứ Ngài không có nh́n vào cái cương vị hay địa vị ḿnh đang có, v́ vậy đây là cái nh́n hết sức đặc biệt của Đạo Phật khi đề cập đến chúng sanh ở trong cuộc đời này.

      Có rất nhiều lần những người BàLaMôn đến hỏi Đức Phật về quan niệm của Ngài đối với giai cấp, th́ Đức Phật Ngài dạy rằng không phải do nghiệp quả thọ sanh mà con người trở lên cao quí hay thấp hèn, mà chính  hành vi tạo tác đă khiến cho con người thấp hèn hay cao quí.  Như vậy đây là điểm đặc biệt đầu tiên của Đạo Phật, khi nh́n vào con người, điểm quan trọng nhất là hành động, và hành động ở đây phải nói rằng đó là sở hành của thân, của khẩu, của ư.  Nói một cách nôm na cái ǵ chúng ta làm, cái ǵ chúng ta nói hay chúng ta suy nghĩ, và thậm trí Đức Phật Ngài c̣n đi xa hơn, Ngài dạy rằng chính điều đó mới phân biệt thế nào là người thiện trí hay là kẻ không phải thiện trí.

        Bây giờ chúng ta lại nói đến khía cạnh khác hết sức thú vị, là khi chúng ta đọc vào Phật Pháp đó là đức tánh thanh tịnh.  Chúng tôi nhớ rằng cách đây một thời gian ngắn chúng ta đă đi qua phẩm " Cấu Uế" , trong phẩm " Cấu Uế" đó rơ ràng Đức Phật Ngài nêu lên một ư niệm, và ư niệm này không phải xa lạ với chúng ta, ư niệm nầy thường bị quên lăng bởi các tín đồ của các tôn giáo, ư niệm đó là cái bản chất thanh tịnh.  Bản chất thanh tịnh tuy rằng nhiều lúc không có hào hứng như là một bản nhạc hay đối với chúng ta, hoặc bản nhạc thanh tịnh đó có thể nó cho chúng ta một đời sống rất là yên tinh lặng lẽ, nhưng mà sự thanh tịnh là một điều mà bậc thiện trí không thể không nghĩ đến, khi chúng ta nói đến những bản sắc của đời sống, chúng tôi lấy một thí dụ nếu khi nào chúng ta lên giường nằm ngủ, mà mền gối được giặt sạch sẽ, và chúng ta tắm rửa sạch sẽ th́ chúng ta có một cảm giác khác và nếu một người không quen với sạch sẽ, họ quen với đời sống dơ th́ rất khó để nói với họ cái cảm giác hạnh phúc như thế nào để được sống trong sự sạch sẽ như vậy.

        Con người của chúng ta sống trong một xă hội mà qua đó bao nhiêu cái tranh chấp, bao nhiêu cái hệ lụy, bây giờ chúng ta ngồi để tưởng tượng đến một đời sống thanh tịnh trong lời nói, thanh tịnh trong hành động việc làm, nó không phải là điều dễ dàng cho chúng ta h́nh dung , chúng ta hoàn toàn thấy, có thể chúng ta nhận rằng điều đó nó có tốt, nhưng chúng ta không thấy được điều đó, chúng ta chỉ có thể mường tượng như vầy, là khi nào trong người của chúng ta sau một ngày làm việc, mồ hôi nhễ nhại rồi chúng ta vào chúng ta có thể tắm được, và sau khi tắm xong trong người cảm thấy sảng khoái, cảm thấy rằng những cái cáu bẩn, những cái chất nhờn, chất dơ trong cơ thể đă được trôi đi theo ḍng nước, và chúng ta mặc bộ đồ hoàn toàn sạch sẽ vào, th́ chúng ta cảm thấy cái sạch sẽ đó nó cho chúng ta một cái ǵ mà có đôi khi chúng ta không thể nói đơn giản bằng lời được.

       - Điều thứ nhất, th́ thưa quí vị, với một người sống trong cuộc đời này thông thường ít có khi nào nghĩ đến cái thể tính thanh tịnh  đó, thể tính thanh tịnh không phải là một ưu tiên hàng đầu trong đời sống chúng ta, chúng ta thường quan trọng những thứ khác, lấy ví dụ chúng ta quan trọng cái ǵ ḿnh có trong đời này, sự thủ đắc tài sản, quyền thế, rồi chúng ta quan trọng cái danh, quan trọng cái lợi.  Nhưng chúng ta ít bao giờ cảm thấy rằng ḿnh không thể thốt lên một câu tương tự như Phật ngôn đă nói rằng  " hạnh phúc thay ta sống không hận thù giữa những người thù hận, giữa những người thù hận ta sống không hận thù "  hoặc giả là "  thân trong sạch hạnh phúc biết bao, khẩu trong sạch hạnh phúc biết bao, ư trong sạch hạnh phúc biết bao " ,  những cảm khái đó khó đến với đời sống của chúng ta v́ chúng ta không nhận ra như vậy.

      Một ngày chúng ta thọ bát quan trai, nếu quí Phật tử thọ bát quan trai, nếu quí vị sống thanh tịnh, các căn trong sáng, phải nói rằng trừ khi chúng ta có nhiều đạo tâm lắm th́ mới thấy như vậy đó, và nó cho chúng ta một cảm giác an lạc nhẹ nhàng , c̣n trái lại nếu một ngày nào đó ai cho chúng ta một món đồ ǵ, hay là ai khen tặng chúng ta lời ǵ, chúng ta hạnh phúc, th́ điều đó là điều rất b́nh thường,

     - Điều thứ hai mà chúng ta có thể nói hết sức đặc biệt của Đạo Phật đó là ư tính thanh tịnh, sự thanh tịnh này nó là một nguyên tắc sống của các bậc mâu ni, của các bậc ẩn sĩ và của những người có chiều sâu về tâm linh.  Chúng ta hăy lấy ví dụ khác là vua trái lạc,vua trái lạc là cái ví dụ người không có nợ nần, trong cuộc sống ở đời có nhiều người có thói quen hay mượn tiền nợ, và có một số người khác khi họ trả xong tất cả những nợ nần họ đă vay, họ cảm thấy sung sướng, c̣n có những người khác họ chỉ sung sướng khi mà họ mượn nợ và họ dùng tiền đó để mua vật này vật kia và họ không thấy được rằng những lúc họ không nợ là lúc hạnh phúc và hạnh phúc vô cùng.

    Cái đời sống gọi là thong dong tự tại của những bậc thánh triết, những bậc hiền nhân và không thể dễ dàng để cảm nhận qua con mắt thường t́nh của chúng ta.  Nếu có một người đi thong dong trong cuộc đời này, ít vướng bận, ít có thủ đắc tài sản, ít có những ràng buột hệ lụy, và sự thong dong đó thoạt nh́n th́ chúng ta khó nh́n bằng con mắt của ḿnh , để có thể hiểu, có thể biết, có thể cảm kích được, nhưng đối với Đức Phật Ngài là bậc giác ngộ đă đứng trên những thế tuế đó th́ Ngài thấy rơ ràng và Ngài đă chỉ cho chúng ta thấy thế nào là giá trị của sự thanh tịnh.

    - Điều thứ ba là tính toàn diện, tính ṭan diện là tính đặc biệt của Đạo Phật.  Tính toàn diện ở đây là một vị tướng giữ thành, vị đó chỉ giữ ba cửa thành, trong thành có bốn cửa, th́ ba cửa được canh chừng rất cẩn mật, nhưng cửa thứ tư không canh chừng cẩn mật th́ không gọi là toàn diện được.  Đời sống nó phải có một cái ǵ đó cho phép chúng ta an tâm nằm xuống nghĩ rằng :" À, tất cả các phương diện của đời sống, lănh vực của đời sống, đă được ư thức, đă được quán sát bằng chánh niệm". 

      Và ở đây chúng ta muốn nói đến một cái nh́n của Đức Phật về sở hành, mà qua đó Ngài cho chúng ta một cái nh́n toàn diện đó là thân nghiệp, khẩu nghiệp và ư nghiệp, tức là hành động của thân, lời nói của miệng, và sự suy tư của ư.  Trong nhiều cách phân loại mà Đức Phật Ngài đưa ra như là thu thúc lục căn.  Thu thúc lục căn là ǵn giữ, pḥng hộ mắt, pḥng hộ tai, pḥng hộ mũi, lưỡi, thân, ư, hoặc giả quán sát năm uẩn qua bốn xứ hoặc giả chúng ta đề cập đến tam nghiệp thân khẩu ư tất cả điều đó đều mang tính toàn diện, mà nhờ tính toàn diện đó mà chúng ta mới có thể an tâm như một căn nhà có ba, bốn lối vào th́ chúng ta sẽ không đi ngủ được, nếu chúng ta không có đóng cửa cài then đầy đủ hết tất cả những cánh cửa.

  Nên qua một bài kệ rất ngắn, chúng ta đọc ở đây trong bản dịch của TT Trí Siêu :

                                                    Giữ lời, hộ pḥng ư

                                                    Thân không làm bất thiện

                                                    Hăy thanh lọc ba nghiệp

                                                    Chứng đạo thánh nhân thuyết.

    Bài kệ này nếu chúng ta những người Phật tử rất quyen thuộc, quen thuộc về từ ngữ, quen thuộc về ư lư, nhưng chúng ta đừng quên rằng dù nó rất là quen thuộc, nhưng bài kệ đó đă nói cả một đạo sống vô cùng quan trọng mà Đức Phật Ngài đă truyền dạy cho tất cả những đứa con của Ngài.

    Chúng ta hăy nh́n qua phương diện khác mà chúng tôi nghĩ rằng cái thân loại toàn diện mà qua ba nghiệp nó cũng cho chúng ta một cái ǵ tương đối rất gần, bởi v́ thưa quí vị cuộc sống là thể hiện trong Đạo Phật có một chữ rất đặc biệt để chỉ sự sống, Đạo Phật không gọi sự sống,  Đạo Phật gọi là " phá quá" hay là hữu, chữ hữu có nghĩa là sự thể hiện .

      Cuộc sống không nằm một chỗ như chúng ta nghĩ, một cuộc sống nó là một ḍng liên tục đắp đổi của tạo tác, dầu chúng ta muốn hay không muốn, cơ thể mặc dầu trong giấc ngủ, trong lúc chúng ta nằm một cách bất động ở trên giường ngủ, th́ thân và tâm nó đều có những cái tiếp diễn trong sự tiếp diễn đó, nó lại tạo tác và trong sự tạo tác đó nó sẽ duy tŕ một ḍng hiện hữu của chúng ta, do đó Đạo Phật dùng chữ " phá quá " để chỉ cho sự sống hay là tiếp diễn, quí vị sẽ ngạc nhiên về điểm này, thưa quí vị điều đó không có ǵ lạ đối với những nhà sinh vật học, nhà sinh học, khi nói đến cơ thể của chúng ta mỗi một tế bào nó sanh rồi diệt, diệt rồi sanh, ở trong cái diệt nó tạo điều kiện cho cái sanh, không có cái ǵ đứng yên một chỗ, chẳng những nó không đứng yên một chỗ, mà nó c̣n tạo ra sự tồn tại cho cái kế thừa, cho dù mấy mà tâm tư của chúng ta cũng vậy.

      Như vậy cái cuộc sống ở trong nhân sinh quan của đạo Phật nó là một sự thể hiện tái tạo, tiếp tục nghĩ là chúng ta sống và chúng ta hiện hữu không phải chỉ với thành quả của quá khứ hay sự tồn đọng của quá khứ mà chúng ta hiện hữu c̣n có tính cách tạo tác, có tánh cách  tác động cho sự sanh khởi ở trong tương lai, tiến tŕnh này không phải quá xa xôi như chúng ta thấy mà hầu như thưa quí vị mỗi một ngày chúng ta đều có thể nói rằng, chúng ta tiếp tục tạo dựng cho một ngày mới và không thể nói một ngày và một giờ, một phút, một giây và từng sát na này tới sát na khác, sự trở thành nó cái sự coming vẫn tiếp tục như vậy.

      Nên khi Đức Phật Ngài dạy rằng cuộc sống nó quan trọng ở chỗ sở hành, th́ thưa quí vị, Ngài hướng chúng ta thường về một điểm vô cùng tinh tế, điểm đó là chữ tạo tác mà không phải sự tạo tác của cơ năng và sự tạo tác mang tánh cách máy móc, mà sự tạo tác đó mang tánh cách nghiệp báo, mang tánh cách nhân quả, nhân quả kể cả nhân quả dị thục, quả dị thục chúng tôi muốn nói ở tại đây khi Đức Phật đề cập đến thân nghiệp, khẩu nghiệp và ư nghiệp, th́ Ngài cho chúng ta biết một khía cạnh quan trọng rằng, ở trong ṿng hiện hữu liên tục đó có nhiều thứ mà chúng ta không kiểm soát được, chúng tôi lấy ví dụ là sáng nay quí vị soi gương thấy ở trên mặt đă bắt đầu có vài vết nhăn, những dấu ấn của thời gian đă t́m thấy ở trên khuôn mặt xinh đẹp của ḿnh, quí vị có thể nghĩ rằng ḿnh có thể t́m cách khống chế lại nó, nhưng Đức Phật cho chúng ta biết rằng những tiếp diễn của thời gian, những thay đổi của thời gian những dấu hiệu đó không nằm nhiều ở trong sự kiểm soát của chúng ta, cho dù chúng ta có làm thế nào đi nữa th́ thưa quí vị cái chung cuộc hoặc sớm hoặc muộn th́ chúng ta cũng phải già.

      Nhưng mà Ngài cho chúng ta biết rằng không phải tất cả đều là một sự trở thành, một sự trở thành đó nó nằm yên một chỗ, nó cố định mà chúng ta không thay đổi được, Ngài dạy rằng có những thứ mà chúng ta có thể đem ư chí, đem quyết tâm của chúng ta để dự phần vào sự thay đổi đó, Ngài nhấn mạnh ở đây đó là sự thể hiện của sở hành thân, sở hành của khẩu, sở hành của ư, chúng ta có thể chen vào ḍng diễn tiến đó, chen vào gịng hiện hữu đó, và chính v́ chúng ta có khả năng chi phối, có khả năng làm khác đi do đó chúng ta mới có ư nghĩa của sự tu tập.

     Bây giờ khi mà nói đến cái sự can thiệp của ư chí, chúng tôi nói nôm na ở bên ngoài, cái ư chí đó là chữ không phải thuần về Phật Pháp mà chúng ta có thể dùng một cách bừa băi, nhưng ở đây chúng tôi muốn dùng một cách rất tương đối, là bây giờ chúng ta muốn thay đổi đời sống th́ chúng ta thay đổi bằng cách nào và ở đâu.

    Có nhiều người ở trong nước nghĩ rằng thay đổi đời sống là chúng ta cố gắng t́m một cái visa để chúng ta có thể rời nước Việt Nam để ra bên ngoài, hoặc giả người ở bên ngoài có thể thay đổi đời sống  có nghĩa là chúng ta sẽ t́m người bạn đời mới hoặc chúng ta thay đổi chỗ ở, thay đổi công ăn việc làm, nhưng mà với Đạo Phật th́ sự thay đổi cuộc sống nó bắt nguồn ở ngay từ thân nghiệp, khẩu nghiệp, và ư nghiệp, nói một cách khác phải thay đổi cách sống của chúng ta và chữ sống ở đây, chúng ta phải nói rằng ở một  chừng mực nào đó th́ sự sống này nó phải được hiểu như là sự thể hiện của thân, của khẩu, của ư.

      Chúng ta hăy tưởng tượng một cuộc sống mà không có sở hành của thân, của khẩu, của ư , th́ thế nào là sự sống được, và do vậy chúng ta phải bắt đầu từ điểm này, chúng ta hăy trở về với quan niệm mà Đức Phật Ngài đă giới thiệu ở trong bài kinh này làm sao để thanh tịnh hoá ba nghiệp, thanh tịnh hóa ba nghiệp ở đây không phải đề tài là triết học, và nó cũng không là đề tài to lớn đối với chúng ta phải nói từ quyển sách này sang quyển sách khác, Đức Phật Ngài cho chúng ta một lời hướng dẫn rất cụ thể, đó là thân không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh, khẩu không nói dối, không nói độc ác, không nói chia rẽ, không nói nhảm nhí vô ích, và ư không tham ác, không sân, không tà kiến ác.

      Chúng tôi lấy một thí dụ, thường thường có rất nhiều câu chuyện nhàm đàm giữa chúng ta và người khác, bây giờ chúng ta thử ngồi nh́n lại xem thử những lúc nói chuyện như vậy, đề tài của buổi nói chuyện là ǵ, chúng ta có nói chuyện sau lưng những người khác hay không, chúng ta có cố t́nh để chia rẽ anh A với anh B, bà B với bà C hay không, chúng ta có nói những câu nói mà có những cáo buột hết sức là tàn nhẫn về người khác hay không, hoặc giả là ở trong room  của chúng ta có hung hiểm hoặc giả chúng ta có cố t́nh dùng lời nói để xuyên tạc sự thật hay không, với một người thường có thói tật để nói lời nói như vậy, họ không thấy những lời nói đó nó là lớn chuyện.

      Thưa quí vị,  đặc biệt trong xă hội mà con người sống với miệng lưỡi, với ngoa ngôn, với loạn ngữ , thường người ta có thể nói bất cứ điều ǵ và lời nói như nước chảy qua cầu, đây là một thời đại mà ngày nay truyền thông rất dễ dàng, từ cái email cho đến thư từ tin tức rồi điện thoại và con người có thể cảm thấy rằng chưa có thời đại nào ḿnh có nhiều phương tiện để biểu đạt tâm tư của ḿnh như vậy, kể cả kẻ rất cô đơn cũng có thể liên lạc với những người xa xôi trong những lúc  chúng ta chat ở trên internet hoặc giả là liên lạc qua cách này hay cách khác.

     Nhưng mà ngôn ngữ, sự biểu hiện của ngôn ngữ nó không phải chỉ tan biến vào hư không, ngày xưa con người đă có một cái nh́n hết sức là lạ  về thế giới này, chúng ta cứ tưởng những cái ô nhiễm thải từ trong nhà máy này ra đại dương, thải ra biển cả, th́ biển cả có sức dung chứa tất cả, chúng ta cứ nghĩ những thoáng khí mà chúng ta thải ra từ các máy xe hơi, máy xe đ̣, xe truck, có thể tan biến vào hư không, bầu trời mênh mông này có thể chứa được tất cả, nhưng mà cho đến bây giờ con người đă hiểu và đă bắt đầu khôn để nhận thấy rằng tất cả những ô nhiểm thải vào khối nước mênh mông của trái đất này, và thải vào bầu trời cao rộng này, những thoáng khí đó, những ô nhiễm đó nó không tan biến mà nó vẫn c̣n đó, những sự tồn đọng của ô nhiễm đó đă gây ra bao nhiêu tai ương cho bao nhiêu thế hệ sắp đến của loài người.

     Th́ như vậy với một người trong một câu chuyện nhàn đàm có thể nói về anh A, nói về bà B và chúng ta có thể dùng những ngôn từ bừa băi, chúng ta có thể nói xấu sau lưng người khác, chúng ta có thể nói đâm thọc, có thể nói chia rẽ, có những lời nói hung hiểm mà ḿnh nghĩ rằng chuyện đó không hề hấn ǵ hết, th́ thưa quí vị chúng ta chưa có ư thức được cái hậu quả thật sự của nó, do vậy với 10 điều mà chúng ta thường gọi thập ác, và 10 điều chúng ta gọi là thập thiện, th́ Đức Phật Ngài đă giới thiệu cho chúng ta một cái nh́n rất là cụ thể, thế nào là thân trong sạch, thế nào là khẩu trong sạch và thế nào là ư trong sạch.

     Chúng tôi không biết rằng trong nền giáo dục của hiện tại của loài người, đă mang điều ǵ thật sự là thay đổi cái nh́n của con người, có thể con người làm việc siêng năng hơn, có thể con người có kiến thức rộng lớn hơn, nhưng mà có một điều thất bại của nền giáo dục hiện tại mang lại, chúng ta phải thấy rằng giá trị của sự thanh tịnh thân nghiệp, giá trị thanh tịnh khẩu nghiệp, giá trị thanh tịnh của ư nghiệp và ư thức về hành vi, về sở hành của ḿnh như thế nào là an lạc, như thế nào là thanh tịnh th́ điều đó không được nhắc nhiều ở trong nền giáo dục của học đường hiện nay, mà ai dạy cho chúng ta điều đó, và thưa quí vị chỉ có Đức Phật và chỉ có Phật Pháp nhắc cho chúng ta thấy rằng đời sống này nó có phẩm chất, và phẩm chất đó tốt hơn phẩm chất b́nh thường, đó là phẩm chất của sự thanh tịnh thân nghiệp, thanh tịnh khẩu nghiệp và thanh tịnh ư nghiệp.

     Nên chi một con người sống và đi lại trong cuộc đời này, có nhiều người tạo ra bao nhiêu hệ lụy cho ḿnh bởi v́ những cái biểu lộ của những sở hành bất thiện, và có những người đến đi với cuộc đời này cảm thấy nhẹ nhàng từ ở bên trong và bên ngoài bởi, v́ thưa quí vị họ đă không có tạo ra những ô nhiễm cho trần gian này, cho chính cuộc sống của họ, khi mà đề cập đến ba nghiệp, th́ chúng tôi bỗng nhiên nhớ đến một sự việc mà mấy ngày qua chúng tôi có dịp đến thăm thủ đô của Ottawa ở Canada, chúng tôi có nghe một vị Thầy kể một câu chuyện rất ngắn, vị này nói rằng hồi mới lập chùa th́ ở trong chùa muốn mua sắm đủ thứ hết, bởi v́ ḿnh không có th́ ḿnh muốn cho có, nào là pháp khí, pháp cụ, những thứ trang hoàng, và khi mua nhiều quá rồi bỗng dưng một ngày đi thăm một tu viện của Nhật Bản và rồi mới thấy đồ đạt trong chùa ḿnh nó lộn xộn, nó bừa băi, nói một cách khác nó nhiều qúa, và bây giờ vị nầy lại muốn làm thế nào để cho giảm thiểu đi, cho nó được trống đi một chút cho dễ dàng hơn một chút, cái ǵ vừa phải vừa sài th́ tốt, c̣n cái ǵ dư ra th́ có thể nói rằng muốn cho người khác mà chưa biết cho ai.

      Th́ thưa quí vị, sự cảm nhận này nó là một cái nh́n rất lư thú trong đời sống của chúng ta khi mà nói đến sự thanh tịnh của ba nghiệp, có những tâm tư của những bậc ẩn sĩ thời xưa, có những tâm tư của những con người đối ngoại cao nhân, những con người đó không có cái mà chúng ta có, con người đó không có những cái lợi, không có những cái danh, không có những t́nh cảm, không có những hệ lụy mà con người trong cơi tục này thường có, thường thủ đắc, thường hoan hỷ.

      Nhưng những vị đó đă có một thứ khác, những vị đó có cái thanh tịnh, có cái thong dong, có một thứ mà thưa quí vị, ít bao giờ chúng ta có thể cảm nhận được trong cuộc sống ngày hôm nay, chúng ta khoan nói đến cung vàng điện ngọc, sự nghiệp đế vương mà Đức Phật Ngài đă bỏ lại sau lưng, chúng ta hăy nói về những ǵ mà Đức Thế Tôn đă có ở trong cuộc đời hoá đạo của Ngài, những người Phật tử, những người sùng tín Đức Phật đă cúng dường cho Đức Phật rất nhiều chùa chiền, những ngôi chùa lớn, những ngôi đại tự và ở những trung tâm thành phố, những nơi hoa lệ thời bấy giờ của miền Trung Ấn, chúng ta nói đến Kỳ Viên, chúng ta nói đến Đông Vương Tự của Visakha, thậm trí vườn soài hết sức thơ mộng của kỹ nữ Ambapaĺ, chúng ta nói đến một vườn Thượng Uyển Nydo khác, và rất nhiều nơi khác đều cúng dường cho Đức Phật.

     Nhưng thưa quí vị, Đức Phật nhận, và Ngài cho Chư Tăng sử dụng, rồi Ngài tiếp tục lên đường đi với đôi chân trần của Ngài, và đi qua những phố phường làng mạc và chưa bao giờ Đức Phật Ngài nghĩ rằng đó là chùa của ta, đó là quyền sở hữu của ta v.v...  Đức Phật Ngài măi măi không đặt vấn đề đó, chúng ta không t́m thấy ở trong kinh Phật có một lời nào hay  có một câu nào nhắc đến một thái độ vướng mắc đến như vậy, và khi chúng  ta nh́n thấy những ǵ Đức Phật có th́ so sánh với cuộc sống ngày hôm nay, th́ chúng ta lại cảm nhận ra một điều rằng cái tâm tư của những bậc hiền thánh hồi xưa nó không nằm ở trong cảnh giới của chúng ta, mà thật sự cảnh giới của chúng ta hôm nay là cảnh giới của cuộc sống vốn nó không có cho phép cho chúng ta sống thong dong ở trong cuộc đời này.

     Chỉ một ví dụ nhỏ như vậy thôi, mới giới thiệu cho chúng ta thấy được một chân trời mới của những vị sống một mức thanh tịnh, vào buổi sáng thức dậy trong ḷng ḿnh nhận ra rằng thân nghiệp của ḿnh thanh tịnh, khẩu nghiệp của ḿnh thanh tịnh, ư nghiệp của ḿnh thanh tịnh, nếu những vị này cần phải rời xa cuộc sống trần gian thế toái này để t́m về một am tranh, một vùng trời nào đó và để cho ba nghiệp được lắng đọng thanh tịnh, th́ các vị đó sẵn sàng làm như vậy, và Chư Thiện Đức, những vị hiền đức cổ kim cũng đă làm nhiều chuyến đi như vậy, bởi v́ các Ngài biết rằng có một phẩm chất rất quí của đời sống, phẩm chất quí đó là sự thanh tịnh của thân, của khẩu và của ư.

      Và trong phẩm chất đó các Ngài cũng hiểu rằng đó chính là sự thể hiện của cuộc sống, và thể hiện ở trong một điều kiện thiết yếu nhất, đó là một điều mà một người b́nh thường chúng ta ít có khi nghĩ đến, có lẽ không có một tôn giáo nào đặt lên sở hành của con người, nó trở thành một phẩm chất sống, thật ra th́ người ta thường xem nó là đạo đức, xem là luân lư.

     Chúng tôi không muốn sài chữ đó ở trong Đạo Phật, khi mà chúng ta nói đến luân lư, th́ chúng ta thường nghĩ rằng đó là những ǵ nằm trong khuôn khổ của điều răn, như 10 điều răn của Ky Tô Giáo, của Do Thái Giáo, Đạo Phật không nói đến điều răn, không nói đến những bổn phận thiêng liêng đối với thượng đế, mà Đạo Phật nhấn mạnh đến rằng con người ở trong cách sống, ở trong cách hiện hữu, ở trong sự thể hiện, ở đó cho thấy rằng  phẩm chất của đời sống nội tại là cao hay là thấp là an lạc hay là không an lạc, điều này chúng ta không có thể bỏ qua được, khi mà chúng ta đọc về giáo lư của Đạo Phật.

         Thưa quí vị trong bài kệ này cũng có đề cập đến con đường của bậc thánh, đây cũng là trường hợp đặt biệt mà chúng tôi vẫn thường nhắc lại ở trong một số các bài giảng trước đây của kinh Pháp Cú, người Trung Hoa mỗi lần đưa lên một điểm ǵ đó th́ họ hay nói cái đạo của người quân tử , chữ quân tử của người Trung Hoa mặc dù định nghĩa rất nhiều, nhưng phải nói rằng cái quan niệm quân tử của người Trung Hoa nó mang tánh cách, một thái độ sống như một đạo của bậc thánh nhân mà được đề cập đến trong đạo Phật.

        Lấy ví dụ chúng ta rất quen thuộc với câu chuyện của Singàlaka trong kinh Thi Ca La Việt mà một bản dịch khác thường được biết tới là kinh Lễ Bái Lục Phương.  Thanh niên Singàlaka mỗi ngày vào buổi sáng thường ra ngoài ngă tư đường lễ bái sáu phương, và một hôm thanh niên Singàlaka gặp Đức Phật đi khất thực, Đức Phật đă hỏi thanh niên Singàlaka rằng tại sao làm như vậy,

        Th́ vị thanh niên này thưa rằng:

      - Bạch Đức Thế Tôn, khi vị thân phụ c̣n sanh tiền, cha con có dạy rằng hăy lễ bái lục phương, mang lại nhiều an lạc, mang lại nhiều lợi ích.

        Th́ Đức Phật nói một câu, mà mệnh đề của câu đó là một điểm làm chúng ta phải để ư, Đức Phật Ngài dạy rằng:

      - Cách lễ bái sáu phương, ở trong đạo lư của bậc thánh nó có khác hơn như vậy.

        Và thanh niên Singàlaka đă hỏi Đức Phật.

      - Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài từ bi chỉ cho con biết lễ bái sáu phương của bậc thánh như thế nào.

        Và Đức Phật Ngài đă chỉ cho thanh niên Singàlaka về những giá trị thiên liêng mà con người phải kính trọng trong cuộc đời này, đó là quan hệ hay là đạo nghĩa giữa cha mẹ con cái, đạo nghĩa giữa vợ với chồng, đạo nghĩa giữa bạn bè với nhau, đạo nghĩa giữa người chủ và người làm, đạo nghĩa giữa Samôn và cư sĩ và những đạo nghĩa khác v.v...  đó là chúng ta được Đức Phật Ngài dạy ở trong kinh Thi Ca La Việt.

       Bây giờ chúng ta trở lại câu nói đầu tiên của Đức Phật là cách lễ bái lục phương ở trong đạo lư thánh hiền có khác hơn  như vậy, và trong nhiều trường hợp khác khi con người sống mà dựa vào một quan điểm ǵ đó, th́ Đức Phật Ngài cũng cho biết rằng cái nh́n của những bậc thánh lại khác đi, và bậc thánh ở đây thưa quí vị, được đưa ra như một chuẩn mực, chuẩn mực đó không phải là một chuẩn mực trên ngôn thuyết, cái chuẩn mực đó nó không phải do nhập tục của xă hội mà chúng ta đưa ra giá trị như vậy, và ở đây Đức Phật Ngài đưa ra rất rơ những bậc thánh là những bậc đoạn tận những phiền năo, bởi v́ bậc thánh là bậc đoạn tận phiền năo nên cái nh́n, cái quan điểm, cái thái độ, cái sở hành của các Ngài đáng để làm chuẩn, bởi v́ sao, đối với Đạo Phật th́ sở dĩ con người có những quyết định sai lầm, có một cái nh́n lệch lạc về cuộc sống v́ có phiền năo chi phối, nhưng khi con người được trong sáng, không có chấp thủ, không có cái nh́n sai lạc, bởi v́ phiền năo đă đoạn, cái chân lư tối hậu đă nh́n thấy, th́ cái ǵ những vị này thấy, những vị này phản ứng, những vị này  tỏ rơ ra cho chúng ta biết th́ nhất nhất đều được xem là chuẩn mực để chúng ta theo đó mà hành sử.

      Nên khi Đức Phật Ngài dùng chữ đề cập đến đạo lư của bậc thánh hay là ở trong giới luật của bậc thánh, chúng ta nghe hơi ngờ ngợ, chúng ta có thể nghĩ rằng trong giới luật của bậc thánh, nghĩa là một nghi luật do những vị đă được phong thần phong thánh chấp tŕ, thật ra đạo lư của bậc thánh chỉ một cách đơn giản như vầy, những bậc đă đoạn tận, hoặc giả ba kiết sử thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, hoặc giả đă giảm nhẹ được ái và sân, hoặc đă đoạn được ái và sân, hoặc giả đă đoạn luôn sắc ái, vô sắc ái, ngă mạn phóng dật vô minh.

       Khi những phiền năo đă đoạn ở trong mỗi một giai đoạn như vậy, cho phép những vị này có một cái nh́n mới về cuộc sống, và điều này thật ra xa lạ với chúng ta lắm, chúng ta nghĩ rằng con người có tŕnh độ, nghĩa là con người có bằng Cử Nhân, có bằng Cao Học, có bằng Tiến Sĩ đó là những người lịch lăm ở trong đời, nhưng mà Đức Phật Ngài dạy rằng con người ở trong sự thanh tịnh của nội tại, sự thanh tịnh đó không có thối đọa, sự thanh tịnh đó có khả năng đoạn tận được phiền năo, sự thanh tịnh đó có thể chứng được sự thực tối thượng là niết bàn và nhất là có thể thối thoái được, biết đâu là bờ mê bến giác, sự khổ, và đâu là hạnh phúc, đâu là nguyên nhân sanh khổ, đâu là con đường đi đến hạnh phúc, th́ cái nh́n của những con người đó, cái hành sử của con người đó gọi là đạo lư của bậc thánh, mà cái đạo lư đó nên làm cho chúng ta suy biết được, rất nên để cho chúng ta suy nghĩ, nếu không th́ chúng ta lấy cái ǵ để làm kiểu mẫu ở trong cuộc đời này.

       Một điều rất lạ lùng mà chúng ta ít có giờ nghĩ tới, là con người chúng ta sống hay bắt chước và bắt chước hay sự mô phỏng nó đă là kiểu mẫu ở trong cái nh́n tồn tại của con người và xă hội loài người.  Bây giờ chúng ta nói như vầy, cách chúng ta đi đứng ăn mặc, cách chúng ta cảm ơn, cách chúng ta mắc cở hổ thẹn, cách chúng ta thương yêu, cách chúng ta cảm thấy thích thú với một sự việc ǵ đó th́ phần lớn là đều do cách mô phỏng hay bắc chước hết, như vậy chúng ta làm một con người VN, ảnh hưởng văn hoá VN, th́ cái ǵ chúng ta nói, chúng ta làm thường thường làm khuôn mẫu của người Việt Nam.

      Nên chi ở những nơi các thiền viện, các vị thiền sư thường nhắc đến một tấm gương sống gọi là living of example, living  of example có nghĩa là người thiền sinh thường hay bắc chước theo những vị Thầy, hoặc giả con cái thường hay bắt chước cha mẹ, cha mẹ nói dối th́ con cái cũng thường nói dối, cha mẹ có hiếu thuận th́ con cái cũng thường có hiếu thuận, như chúng ta nói rằng "hiếu thuận hoàn sanh hiếu thuận tử, ngỗ nghịch hoàn sanh ngỗ nghịch duyên" , th́ sự bắt chước của con người là một điều rất tự nhiên, và qua đó con người thay đổi cuộc sống của chính ḿnh, nên khi đề cập đến đạo lư bậc thánh, Đức Phật Ngài khuyên chúng ta nên dùng h́nh ảnh của những bậc thánh để làm một cái ǵ để chúng ta noi theo, và trong sự noi theo đó, khiến cho chúng ta ban đầu, chúng ta chỉ tập theo như tập đồ những chữ để viết về sau này, nhưng khi chúng ta đă tập thuần thục rồi th́ chúng ta sẽ có thể viết được.

      Thưa quí vị ở đây khi Đức Phật Ngài nói đến đạo lư của bậc thánh, con đường của bậc thánh th́ Ngài một lần nữa Ngài cho chúng ta biềt rằng đó là những bậc thân cận trong sạch, một sự trong sạch không có thối chuyển, một sự trong sạch của bậc đă đi đến bến bờ, đă đi đến một giai đoạn nhất định nào đó và các Ngài không trở lại, chúng ta nói đắc sơ quả, nhị quả, tam quả và  tứ quả. 

      Nói tóm lại ở trong bài kệ này cho chúng ta bốn điểm hết sức cần phải chú ư :

     - Điểm đầu tiên Đức Phật Ngài dạy ở tại đây  và chính cái sở hành, chính cái hành vi của thân, của khẩu, của ư tức là lời nói hành động, ư nghĩ đó là sự sống, đó là sự hiện đủ và đó nói lên cái một hướng đi của chúng ta.

     - Điểm thứ hai Đức Phật Ngài nhấn mạnh ở trong bài kệ này là phẩm chất thanh tịnh, sự thanh tịnh của thân nghiệp, của khẩu nghiệp, của ư nghiệp nói lên cái giá trị của cuộc sống.

     - Điểm thứ ba chúng ta được biết, được thấy ở trong bài kệ này là chúng ta phải nói đến tính toàn diện, toàn diện ở đây là thế nào, nghĩa là nếu một con người có sở hành tốt về thân, họ không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, nhưng khẩu nghiệp không thanh tịnh, th́ không gọi là  thanh tịnh được, cũng như người lính phải canh giữ bốn cửa thành và tánh toàn diện là tánh thứ ba.

     - Điểm sau cùng là chúng ta biết mỗi con người sống, chúng ta sống ở trong sự mê tối của cuộc đời, chúng ta sống ở trong những cái phân vân, cái nghi hoặc của cuộc đời, chúng ta rất cần để có một kim chỉ nam, để có một cẩm nam để sống, mà khi Đức Phật Ngài nói đạo lư của bậc thánh ở đây, Ngài muốn nói đến cái sở hành, cái quan niệm của những bậc tâm linh trong sạch của cuộc đời.

      Như vậy với bài kệ này đă được TT Trí Siêu dịch như chúng ta được đọc .

                                         Giữ lời, pḥng hộ ư

                                         Thân không làm bất thiện

                                         Hăy thanh lọc ba nghiệp

                                         Chứng đạo thánh nhân thuyết

      Thưa quí vị, bài kệ đó cho chúng ta một ư nghĩa lớn về cuộc sống này, đó là vài điều chúng tôi muốn tŕnh bày trong ư nghĩa của kệ ngôn Pháp Cú 281 và phần c̣n lại rất ngắn của bài kệ này, chúng tôi cũng xin nhắc lại để chúng ta thấy duyên sự tại đây.

       Tôn Gỉa Mục Kiền Liên là một vị đại để tử của Phật, một vị để nhất thần thông, bằng cái thiên nhăn thông thanh tịnh siêu nhiên của Ngài, Ngài nhận thấy có những chúng sanh sống trong nỗi khổ, cái khổ mà con người khó có thể tưởng tượng được, Tôn Giả đă bạch Đức Phật câu chuyện đó, từ câu chuyện đó Đức Thế Tôn Ngài đă dạy cho chúng ta biết rằng những cái gọi là sự sống hay t́nh trạng sống của chúng sanh ở trong cuộc đời là hữu h́nh hay vô h́nh, những loài chúng sanh, những chúng sanh cao quí, những chúng sanh thấp hèn đều tất cả nó đến từ nhân quả của thân nghiệp, khẩu nghiệp và ư nghiệp, một người mà biết được điều đó th́ người đó có thể thay đổi được cuộc sống chính của ḿnh. 

      Do vậy chúng ta đôi khi nên quên đi, quên nấc thang mà xă hội đặt giá trị mà xă hội đă áp đặt cho chúng ta, thay v́ có một buổi sáng nào đó mở cửa sổ nh́n ra bên ngoài, ḿnh ước ǵ phải chi ḿnh có một chiếc xe, ước chi có một công việc làm tốt, ướt chi ḿnh có bằng cấp, ướt chi ḿnh có t́nh yêu v.v...  Để cho cuộc sống ḿnh được đẹp hơn, thăng hoa, được có cái này có cái khác, th́ chúng ta nên làm một ước vọng, ước vọng làm thế nào có thể thanh tịnh được ba nghiệp của ḿnh.

     Nếu mà chúng ta không chắc rằng điều đó nó mang lại cho chúng ta một cái ǵ tốt đẹp hơn.Th́ chúng ta hăy thử, thưa quí vị cái thử đó không chết ai hết và không có hại cho ai hết, hoặc giả khi nào đó chúng ta sau một ngày làm việc mệt nhọc trở về, chúng ta có thể vào trong pḥng tắm, tắm rửa sạch sẽ, mát mẻ và thay bộ đồ vào, những lúc đó chúng ta cảm thấy khoan khoái th́ chúng ta hăy nhớ rằng Đức Phật có nhắc chúng ta yếu tố thanh tịnh là một trong những yếu tố khiến cho đời sống này có ư nghĩa hơn, cao quí hơn và sẽ đưa chúng ta đến một đạo lộ tốt đẹp hơn.  Chúng tôi xin được kết thúc bài giảng hôm nay ở tại đây, kính chúc quí Phật tử có một ngày hết sức an lạc. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Minh Hạnh biên soạn

   Trở lại câu hỏi

Trở lại trang 1 Trở lại trang 2 Trở lại trang 3

   Trở lại trang chánh