HÂN HOAN ĐÓN CHÀO CHƯ TÔN ĐỨC VÀ QUÝ PHẬT TỬ

   

Câu 180, ngày 05 tháng 11, 2003

 

Phẩm 20 : Hành Tŕnh - Phẩm Đạo (Maggavagga) - Kệ Ngôn 277

                Tất Cả Pháp Hữu Vi Là Vô Thường

                                             Tất cả hành vô thường

                                             Với tuệ quán liễu ngộ

                                             Nhờ vậy yểm ly khổ

                                             Ấy con đường thanh tịnh

                   (Bản Việt dịch của TT. Giác Đẳng.)

TT Giác Đẳng giảng :  Kính bạch Chư Tôn Đức và thưa quí vị, sáng hôm nay tại thành phố Toronto, trời bây giờ đă sang thu, mùa thu ở Canada rất đẹp với lá vàng và đỏ, đó đây vẫn c̣n vài cây thông vẫn c̣n mang màu xanh, trời mùa thu ở đây rất là hữu t́nh, và có thể nói rằng trên cuộc hành tŕnh đi qua ngang nhiều thành phố, và thỉnh thoảng cũng bắt gặp h́nh ảnh hết sức tươi đẹp, nó có thể là một phần quà của cuộc sống này, nhưng mà đồng thời nó cũng có thể là những ǵ làm tâm tư dính mắc lại với trần gian nhiều thay đổi này .

       Tâm tư của chúng ta mỗi khi tiếp xúc, với cái đẹp của sắc, với cái hay của thinh, rồi với cái khả ái, khả hỷ,khả lạc của thí, vị, xúc, pháp v.v... Chúng ta luôn luôn mong mỏi kéo dài những ǵ nghĩ rằng vừa ḷng đẹp ư, và nếu thật sự chúng ta không thể kéo dài được, th́ tự trong tâm tư của ḿnh, ḿnh vẫn mơ về một phương trời miên viễn.

       Chúng tôi nhớ người Tổng Thống và cũng là vị Chủ Tịnh Tổng Bí Thư của đảng sau cùng của Cộng Ḥa Liên Bang Sô Viết cũ , ông Gorbachev, trong những năm tháng về sau này một lần kư giả hỏi ông:

       -  H́nh ảnh ǵ mà ông cảm thấy thích thú nhất.

      Th́ ông Gorbachev trả lời rằng : Ông thích nh́n cả mặt đất bao phủ bởi màu trắng của tuyết, và mùa đông khi tuyết rơi xuống, nh́n màu trắng phủ khắp mặt đất này, chải rộng ra tận chân trời, th́ ông có cảm tưởng rằng có một cái ǵ vĩnh hằng ở trong cuộc sống vốn nhiều biến đổi.

      Cụ Nguyễn Du có viết trong bài "Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh".

                                         Ḷng nào ḷng chẳng thiết tha

                                         Cơi âm là thế huống là cơi dương .

     Đời sống của chúng ta th́ mong mỏi cái ǵ mà vừa ḷng, toại ư.  Có thể đứng lại, và hiện hữu măi măi và không bao giờ thay đổi, nhưng mà thực tại th́ không phải như vậy.  Bất kể đó là cái đẹp của núi, cái đẹp của sông hồ, hay là một vẻ đẹp dường như khó có thể hủy hoại được của một viên kim cương, th́ điều đó nó sẽ không có ư nghĩa dễ ǵ trên phương diện lâu dài, đối với mỗi chúng ta.  Bởi v́ một viên kim cương có tồn tại hàng triệu triệu năm như vậy, nhưng mà bản thân của chúng ta sống trong thế giới này, dù chúng ta sống ở một nơi, một cái đẹp của sơn thủy đă có mặt vài ba chục triệu năm th́ bản thân của chúng ta cũng không có hưởng nó được quá một trăm năm, và " Chính thân chẳng có lại cầu chi ai " có thể nói rằng khi chúng ta nằm xuống trút hơi thở cuối cùng, những ǵ của trần gian th́ chúng ta trả lại cho trần gian, và thưa quí vị lúc đó những thứ đó trở thành vô nghĩa.

      Có những khi cầm tờ báo đọc buổi sáng, chúng tôi có cảm tưởng rằng, những người họ đang tường thuật về những phát minh mới trên phương diện kỹ thuật, niềm lạc quan về nền kinh tế trong tương lai, những tiện nghi và sự giàu có của nhân loại.  Bên cạnh đó chúng ta cũng nghe những lời tiên tri, hoàn toàn chắc thật, đó là trái đất chúng ta đang ở đây, rồi một ngày kia, nó cũng sẽ bị hủy hoại.  Trái đất c̣n bị hủy hoại, th́ nói ǵ đến núi đến sông, nói ǵ đến thân thể của chúng ta.

      Thưa quí vị, cái ǵ gọi là lâu dài, miên viễn măi măi giống như những điệu nhạc lập đi lập lại, những nhạc nói về t́nh yêu, nó giống như những giấc mơ bất tuyệt của loài người, th́ tất cả những thứ đó đều chỉ là phù du, và bây giờ thật sự rất là khó để chúng ta có thể đón nhận một ư tưởng, đó là cái ǵ hữu sanh th́ hữu diệt, hữu h́nh th́ hữu hoại, có tập hợp th́ có tiêu tan.

       Đối với Đức Phật th́ khi đề cập đến những cái mà chúng ta gọi là hiện hữu trên thế gian này, th́ Đức Thế Tôn Ngài dùng chữ sa'nkhaaraa, sa'nkhaaraa là chỉ chung cho những ǵ thuộc về vật chất, cũng như là về nội tâm, nói theo Atỳđàm đó là danh pháp và sắc pháp, dù là danh pháp hay sắc pháp th́ tất cả những thứ đó nó đều là sự hiện diện, sự hiện hữu của kết cấu, nó đều là sự hiện hữu của tập hợp do nhiều nhân, nhiều duyên mà hiện hữu, và bởi v́ nó được kết cấu tập hợp, nó phải đi theo một định luật ắt có và đủ, một định luật bất di bất dịch là cái ǵ có tụ th́ phải có tán, cái ǵ có sanh th́ phải có diệt, không có cái ǵ sanh lên do nhân duyên mà nó lại không diệt hết.  Bởi v́ có nhân duyên để sanh, có nhân duyên để tồn tại mà khi nhân duyên đó không c̣n nữa, th́ tất cả những thứ đó đều bị tan biến.

        Ở đây có hai bài học rất là khó nuốt ở trong cuộc sống của chúng ta, cuộc sống của chúng ta hầu như mọi thứ đều quyết định một cách độc đoán một chiều và từ một thứ mà thôi, một cách rất là tầm thường, th́ chúng ta quan niệm rằng mọi thứ đều phải làm theo ư của ḿnh muốn : "tôi muốn cái này, tôi muốn cái kia, và cuộc sống phải thế này, cuộc sống phải thế kia ".

        Chúng ta sống hầu như nghĩ rằng, chính cái ư muốn của ḿnh nó phải là một ông vua, nó phải là một trung tâm quyền lực, quyết định tất cả và dĩ nhiên chúng ta hiểu rồi cái ư muốn đó nó có thể dự phần vào việc biến đổi của cuộc sống này, nhưng  cuộc sống này nó không phải hoàn toàn chi phối của ư muốn của chúng ta, bây giờ chúng tôi có thể nói với quí vị rằng những chiếc lá vàng của mùa thu tại Gia Nă Đại, nó rất đẹp, chúng tôi cảm nhận được điều đó như là cảm nhận một người khách từ xa đến đây, nhưng mà bảo rằng ư muốn chúng tôi khác hơn, chúng tôi không muốn nh́n màu ảm đạm của trời thu, chúng tôi không muốn nh́n những chiếc lá rụng xuống, th́ điều đó không thể được, là v́ ư muốn của ḿnh có giới hạn, và sự tha thiết của con người dẫn xa đến nữa, nếu mà cá nhân bất lực," lực bất ṭng tâm ", th́ ít nhất là quyến thuộc, ít nhất là công tư của ḿnh, ít nhất là chủng tộc của ḿnh, ít nhất là Quốc Gia của ḿnh, những thứ đó phải có một khả năng điều trị để chiếm ngự thế giới này và điều khiển thế giới này theo ư của ḿnh muốn.

       Và rồi khi chúng ta thấy rằng ngay cả nguồn máy công quyền cũng bất lực trước những thay đổi, th́ chúng ta lại mơ về một thế giới khác đó là một thượng đế toàn năng, một thượng đế quyết định tất cả, chúng ta không dám sống nh́n cuộc đời này, để mà thấy rằng mỗi một pháp, mỗi một sự vật nó có tự tánh riêng của nó và chúng ta sẽ rất là sợ hăi để nh́n cuộc sống nó vốn không có một ai, không có một thế lực nào và cũng không có một cá thể nào có thể làm chủ tất cả.

      Và chữ sa'nkhaaraa ở đây rất khó tiêu hoá đối với một người b́nh thường.  Các Pháp sanh lên do nhân do duyên tập hợp, chúng ta không có can đảm nh́n nhận như vậy, trên phương diện lư luận, trên phương diện ngôn ngữ, trên phương diện thảo luận th́ chúng ta có thể tạm nhận là như vậy, nhưng mà tận ở trong ḷng chúng ta không dám nhận, bởi v́ vậy con người luôn luôn mong muốn cuộc sống nó phải diễn tiến, nó phải hiện hữu, nó phải duy tŕ ở tại một ư trí, ư trí của một cá nhân hay ư trí của nguồn máy công quyền, hoặc là ư trí của thượng đế, nhưng phải có một cái ǵ đó làm chủ tất cả, chúng ta rất sợ hăi khi mọi việc tự sanh và tự diệt.

       Nhưng mà thưa quí vị, cuộc đời này giống như một khu rừng, chúng ta vào trong khu rừng môi sinh có những cây cao bóng mát, chúng ta nh́n mỗi loại cây nó vươn lên từ mặt đất, nó lớn lên già đi và gẫy đổ xuống, để trở về ḷng đất, tan biến vào ḷng đất, nó có tự tánh riêng của nó, khó có thể nh́n thấy một khu rừng hiện hữu mà nó do một người nào quyết định tất cả, rất khó.

      Cuộc sống của chúng ta đều v́ ăn mặc ngủ nghĩ, từ những việc giải trí đến những việc văn hoá chính trị, xă hội v.v... tất cả nó đều bị chi phối bởi nhiều nhân và nhiều duyên, bởi v́ vậy Đức Phật Ngài dậy cho chúng ta biết rằng sự hiện hữu của cuộc đời đó gọi là sa'nkhaaraa là thượng vi, là pháp hành, là sự tập hợp, là sự kết cấu.  Và kết cấu này, đă gọi là kết cấu th́ nó không có một đơn vị duy nhất, nó cũng không có một cá thể làm chủ tất cả, mà tất cả đều có tự tánh riêng của nó, là bởi v́ có tự tánh riêng của nó nên sự quyết định hết sức là khó khăn.

      Nếu chúng ta dọn một bữa tiệc và chúng ta là chủ nhà, th́ thưa quí vị chúng ta có một số quyền kiểm soát nhất định, ai ngồi chỗ nào, món ăn nào phải dọn lên trước và cách trang trí ra sao, nhưng mà nếu chúng ta đi vào một bữa chợ đời, một buổi chợ phiên mà chúng ta thấy ở tại Việt Nam chẳng hạn, chúng tôi không biết ngày hôm nay người ta c̣n có những nhà lồng chợ, là những chợ mà buổi sáng dân ở trong làng, trong xóm, kẻ th́ nải chuối, kẻ th́ buồng cau, đôi lúc người ta chỉ có mấy trái dừa, người ta cũng đem ra chợ ngồi xuống.  Ở trong chợ đời mênh mông đó, chúng ta không quyền kiểm soát, chúng ta có rất ít thứ kiểm soát, chúng ta chỉ có nh́n, chỉ có quan sát, nhưng mà gọi là làm chủ tất cả th́ chúng ta không làm chủ là v́ nó là một cuộc chợ.  Khi mà nói là một cuộc chợ th́ chuyện đến và đi của mỗi người đều quyết định lấy, và h́nh ảnh toàn diện của nó không thể nào là một h́nh ảnh được quyết định bởi bất cứ ai, và nó là do sự kết cấu của rất nhiều yếu tố, th́ như vậy cái quan niệm đầu tiên của Đạo Phật, nói rằng sự hiện hữu của chúng ta là sự hiện hữu của pháp hành, sự hiện hữu của hữu vi, sự hiện hữu của pháp tập hợp, của những pháp do nhân do duyên và có nhiều cái tự tánh và có nhiều pháp, mỗi pháp có tự tánh riêng của nó.

       và bài học thứ hai chúng ta cũng phải học và rất khó tiêu hóa đó là cái ǵ sanh lên do nhân do duyên th́ cái đó nó phải có chung cuộc của nó, cái nhân cái duyên nó kết thúc .  Lấy một thí dụ đơn giản như vầy, chúng ta thắp nên một ngọn nến, ngọn nến đó cháy được là nhờ có sáp, nhờ có tim, nhưng nhờ có sáp và tim nó là yếu tố quyết định cho ngọn nến cháy th́ sáp và tim đó nó không phải là thứ ǵ vĩnh hằng, nó không phải là thứ ǵ bất diệt, nó bị ṃn mỏi theo thời gian và khi sáp với tim không c̣n nữa th́ ngọn lửa cũng chấm dứt, như vậy ngọn lửa hiện hữu là nhờ sáp với tim, và ngọn lửa không hiện hữu nữa th́ cũng bị chi phối điều kiện của sáp và tim.

      Chúng ta sanh ra ở trong kiếp người, chỉ đơn thuần là do sanh nghiệp và thiện nghiệp chúng ta hiện hữu, nhưng mà thiện nghiệp đó cũng không thể nào là một năng lực bất tận, nó phải có cái chấm dứt của nó, và thưa quí vị bởi vậy cái câu " Hữu h́nh hữu hoại, hữu sanh hữu diệt ", cái ǵ tụ th́ phải có táng nó không phải là điều mà chúng ta dễ dàng nhận thức được.

      Khi Ngài Xá Lợi Phất bấy giờ c̣n là một cư sĩ Upatisya, gặp được Tôn Giả Asvajit đang đi khất thực trên đường, nh́n phong thái của vị SaMôn này, Upatisya đă cảm thấy có một cái ǵ siêu việt, có cái ǵ vượt thoát ở trong khuôn mặt, ở trong cử chỉ và ở trong cái nh́n từ trong ánh mắt trang thực trong sáng.

       và Upatisya đă đến chắp tay hỏi Ngài Asvajit.

      - Ngài là ai, và học đạo với Thầy nào, và có thể nói cho con biết Ngài đă học những ǵ ở vị Đạo Sư đó.

      Ngài Asvajit mặc dầu lúc đang đi khuất thực, và đă trở về ngồi một chỗ thọ thực đă xong, Ngài thấy vị thiện nam này kiên nhẫn đi theo ḿnh từ lúc đi khuất thực cho đến bây giờ sau giờ thọ thực xong.

      Ngài Asvajit nói với Upatisya rằng:

      - Bần đạo xuất gia với Đức Phật, và bởi v́ xuất gia không bao lâu, nên cái hiểu th́ không có nhiều, nhưng có thể tóm tắt một câu rằng "chư phục tùng duyên sinh, diệt phục tùng duyên diệt, ngă Phật Đạo SaMôn, thường tác như thị thuyết" nghĩa là "Pháp ǵ do nhân do duyên mà sinhm th́ pháp đó cũng do nhân do duyên mà diệt, và Đức Phật là Đại Samôn, Ngài thường thuyết giảng như vậy".

      Câu đó thưa quí vị đối với nhiều người coi nó b́nh thường lắm, nhưng đối với Ngài Upatisya về sau trở thành Tôn Giả Xá Lợi Phất, đă mở ra một vùng trời cao rộng, bởi v́ cái ǵ có nhân sanh ắt có diệt là điều ít có khi chúng ta nghĩ đến ở trong đời sống, chúng ta chỉ muốn tạo thêm, và cái ǵ chúng ta tạo nên th́ chúng ta chỉ muốn nó tồn tại và tồn tại vĩnh viễn hầu như chúng ta sẽ ăn đời ở kiếp với những thứ đó, nhưng mà thưa quí vị tất cả nó đều đi theo một định luật, đó là định luật vô thường.  Chúng ta không thể nào tránh được chuyện đó.

     Có một Phật tử ở trong room Diệu Pháp này, đă tham dự room Diệu Pháp đă trên ba tháng qua. Và đă tâm sự với chúng tôi rằng : mỗi buổi sáng vị ấy chỉ muốn thức dậy và biết rằng ở trong room Diệu Pháp đang có sinh hoạt th́ trong ḷng đă cảm thấy vui lắm.  Và vị ấy hỏi chúng tôi,  vậy chứ chúng ta có duy tŕ được room Diệu Pháp măi măi không ?.

     Th́ chúng tôi có cười và nói với đạo hữu đó rằng:

       - Không có cái ǵ măi măi cả, nếu có cái nhân, cái duyên ǵ mà nó duy tŕ được room Diệu Pháp này, th́ nhân duyên đó nó đang là một chất liệu để cho room tồn tại, và khi chất liệu đó hết th́ mỗi thứ chấm dứt.

      Chúng ta có nhiều lư do lắm, có thể một lúc nào đó người ta sẽ không tha thiết với những đề tài, không tha thiết với những chương tŕnh paltalk, hoặc các vị Giảng Sư không c̣n có điều kiện để làm việc trong room nữa, th́ tự nhiên cái room phải kết thúc. Chúng ta biết rằng cái ǵ mà hiện hữu là vốn dĩ nó hiện hữu dựa trên một số điều kiện nhất định, khi điều kiện nhất định đó không c̣n nữa th́ phải chấm dứt.  Nhưng chúng ta dù có chấp nhận như vậy, nhưng chúng ta vẫn né tránh, chúng ta nghĩ rằng: " À, có những thứ chợt đến chợt đi, có những thứ vĩnh hằng, nó có những thứ măi măi".

      Thậm chí khi chúng ta thấy rằng người nằm xuống trút hơi thở cuối cùng, và xác thân của họ đă  trở về thành một khúc gỗ xây dựng, xác thân của họ bây giờ đă chứng tỏ rằng cái ǵ họ xây dựng trên thể xác đó, dù là oanh liệt, dù đẹp đẽ, dù có một quá khứ huy hoàng đi nữa th́ thể xác đó bây giờ không c̣n ư nghĩa nữa, thường th́ chúng ta chấp nhận, phải nghĩ rằng phải có một cái ǵ đó, đó là linh hồn, đó là tâm linh, đó là " sống là thể xác, chết là tinh anh ".  Cái tinh anh phải măi măi tồn tại, tại sao chúng ta cần có một linh hồn, tại sao chúng ta cần có một tinh anh, và thật sự chúng ta không có can đảm mà nhận rằng tất cả mọi thứ đều phải thay đổi, thân cũng vậy, tâm cũng vậy, danh pháp cũng vậy, sắc pháp cũng vậy, tất cả mọi thứ đều phải thay đổi, và hễ nó tồn tại theo nhân duyên th́ nó phải thay đổi.

     Và thưa quí vị bây giờ lại có một câu kệ ngôn khác rất là quan trọng: Tuệ quán thấy vậy, hay là quán sát với trí tuệ. Có bao nhiêu lần chúng ta nh́n thấy sự thay đổi trong đời sống này, nhiều lần lắm.  Chúng ta đă nh́n thấy sự thay đổi từ thưở c̣n tấm bé, chúng ta nh́n thấy sự thay đổi của những lúc ăn uống hỷ hả cho đến lúc bụng đó cào, chúng ta nh́n thấy sự thay đổi của những người thân của chúng ta, rời khỏi chúng ta, chúng ta nh́n thấy sự thay đổi của thể chế, sự thay đổi của một dân tộc, sự thay đổi của một trào lưu, sự thay đổi của khuynh hướng.

    Nói về đất nước Việt Nam thôi, một người nào bốn mươi tuổi, sống bốn mươi năm qua nh́n lại đất nước Việt Nam th́ có trăm ngàn thứ thay đổi.  Nhưng mà điều khác biệt giữa đạo và cái nằm ngoài đạo lư, đó là người hiểu đạo rồi họ nh́n sự vô thường bằng trí tuệ, nhưng đối với chúng ta không hiểu đạo th́ chúng ta sẽ nh́n sự vô thường bằng một tâm tư ảm đạm, bằng những giọt nước mắt, bằng nỗi bi lụy, bằng nỗi bi ai.

      Và phải nói rằng khi Đức Phật dạy rằng với tuệ quán thấy vậy đó là Ngài mở ra cả một chân trời mới, chân trời đó mà Ngài dạy rằng cái nh́n của trí tuệ nó có khác với cái nh́n của b́nh thường chúng ta, chúng ta nh́n sự vật, th́ thưa qúi vị phần lớn đến từ cảm xúc, đến từ tinh thần vị ngă, và đến từ sự chấp thủ, nó phải như vậy, nó không thế thứ khác được. Lấy ví dụ chúng ta có một người thân, rất thân, rồi bây giờ người đó bỗng dưng không c̣n thân với chúng ta nữa, người đó có thể thân thiết với một người khác, người đó có thể thay đổi cái nh́n về chúng ta, và rồi chúng ta thật buồn, buồn lắm và uất hận, và tức tối nghĩ rằng ;  tại sao nó lại như vậy, đáng lẽ nó phải như thế này, nó phải như thế kia, mà tại sao có chuyện thay đổi, sự thay đổi đó có thể là sự thay đổi của t́nh yêu, sự thay đổi những lời cam kết, sự thay đổi trong cách đối sử.  Nhưng cho dù đó là sự thay đổi ǵ, chúng ta cũng xác nhận rằng tâm tư của con người vốn là thay đổi, người đời không thay đổi th́ tâm tư của ḿnh cũng thay đổi và trong sự thay đổi đó, th́ nó là một điều rất là tự nhiên.  Nếu bảo rằng lúc nào cũng như vậy, th́ thưa quí vị đó là vấn đề của chúng ta, bởi v́ chúng ta lúc nào chúng ta đ̣i hỏi sự việc nó phải tiếp tục như vậy nó không được thay đổi, và Đức Phật gọi cái nh́n đó không phải cái nh́n của trí tuệ, cái nh́n của trí tuệ là nh́n một cách toàn diện, nh́n để thấy rằng: à, nó phải như vậy. 

      Chúng ta đọc rất nhiều tiểu thuyết, nhiều chuyện phim mà chúng ta được xem, nói về những ông cha, bà mẹ, rất thương con, sao không thương con được, đứa con nó đă chào đời ở trong niềm vui của ḿnh, đứa con nó đă lớn lên từ tấm bé ở trong ṿng tay thân yêu bảo bọc của ḿnh, rồi có một ngày đứa con đó lại thay đổi hoàn toàn cái quan hệ với gia đ́nh, nó không c̣n gắng bó với cha, gắng bó với mẹ nữa, đứa con đó bây giờ lại hướng vọng về sống với một người khác, cha mẹ cho dù đă có tuổi, thường thường là tuổi trung niên rồi, nhưng mà cũng không dễ dàng để suy xét, không phải dễ dàng để đón nhận là đứa con có thể rời ṿng tay bảo bọc của ḿnh, đứa con có thể sống ngoài t́nh thương của ḿnh, và t́nh thương của ḿnh bây giờ không c̣n quan trọng nữa, v́ vậy có những ông cha, có những bà mẹ vô cùng khổ sở, khổ sở v́ thấy đứa con ḿnh thay đổi, nhưng mà nếu khi mà chúng ta nh́n sự việc bằng trí tuệ th́ chúng ta nh́n khác, chúng ta nh́n bằng trí tuệ th́ chúng ta sẽ không trách móc, sẽ không thống trách, mà chúng ta chỉ thấy được một sự việc, đó là nó phải như vậy.

      V́ vậy câu này là một câu hết sức là quan trọng là " với tuệ quán thấy vậy ", chúng ta đă thấy cuộc đời thay đổi bằng nước mắt, chúng ta đă thấy cuộc đời thay đổi bằng sự vô minh, chúng ta thấy cuộc đời thay đổi bằng sự giận dữ của ḿnh, nhưng mà Đức Phật mời gọi chúng ta một lần nào đó nh́n thấy thay đổi đó bằng tŕ tuệ, nh́n nó bằng trí tuệ nó có khác hơn là chúng ta nh́n với phàm tâm, nh́n nó bằng trí tuệ nó khác hơn là với sự đ̣i hỏi, với sự đinh ninh, với sự kỳ vọng là nó phải như thế này, phải như thế khác.

     Và thưa quí vị, có một câu thứ ba là một câu rất đẹp của kinh điển, " nhờ vậy yểm ly khổ ".  Chữ " yểm ly " thật ra nó có nghĩa là nhàm chán (disappointment), cái ǵ đó chúng ta không bám vưí chúng ta không có tha thiết nữa, nhưng chúng tôi không dịch chữ nhàm chán là như vậy, chữ chán có khi nó nghĩa là tiêu cực, như ḿnh chán nản cái ǵ đó rồi ḿnh bực bội    , nhưng mà đúng cái nghĩ là lúc bấy giờ cảm thấy, ḿnh có thể dửng dưng với nó.  Chúng ta có thể dửng dưng, có thể không có dính mắc vào điều đó nữa, thật là lạ, chúng ta lớn lên ở trong cuộc đời này ai cũng sợ đau khổ, nhưng mà chúng ta lại không dửng dưng được với sự đau khổ, cũng như ngay cả chúng ta rất ghét kẻ thù, nhưng mà chúng ta cũng không dửng dưng được kẻ thù, chúng ta làm như làm mặt lạ với kẻ thù, nhưng chúng ta không tự tại với kẻ thù, kẻ thù thấp thoáng ở đâu đó, th́ thưa quí vị chúng ta giẫy nảy, chúng ta không có tỉnh táo được, chúng ta không tự nhiên được, và c̣n tệ hại hơn nữa, là cho dù chúng ta khổ đến đâu đi nữa th́ chúng ta vẫn lao đầu vào đó, chúng ta ôm chầm lấy nó, chúng ta như là một người vắt nước cốt dừa, cố gắng để t́m cái ǵ đó, ở trong nước cốt dừa, mà cái ǵ đó khả dĩ chúng ta nghĩ rằng  " đặng là được cuộc sống."

     V́ buổi giảng vào ngày thứ bảy, paltalk bị gián đoạn nên buổi giảng đến đây chấm dứt, Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Minh Hạnh biên soạn

   Trở lại câu hỏi

Trở lại trang 1 Trở lại trang 2 Trở lại trang 3

   Trở lại trang chánh