TT Giác Đẳng giảng : Nam Mô Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Kính bạch Chư Tôn Đức, và
thưa quí Phật tử. Hôm nay chúng ta có một bài kệ,
có thể nói rằng bài kệ này ảnh hưởng rất
lớn đến quan niệm về giáo dục trong Đạo
Phật, ngày hôm nay quan niệm về giáo dục người
ta thường nói nhiều về sự thu thập kiến
thức, càng nhiều càng rộng th́ điều đó nói
lên cái kiến văn quảng bác và có giá trị đặc
biệt. Chính v́ vậy nền
tân giáo dục đă nhấn mạnh rất nhiều về
những bằng cấp học vị, được xem như những
thành tụ để đo đạt thế nào là một
người có kiến thức rộng răi hay là kiến thức
hẹp ḥi. Tuy nhiên đối
với Đạo Phật chúng ta lại được biết
rằng trong quan niệm về giáo dục Đạo Phật
theo một quan niệm hoàn toàn mới, và chính quan niệm
này cũng đă là những nét chấm phá rất lớn của
Thiền học khi đem đối chiếu với nền
Phật học truyền thống của Phật Giáo Bắc
truyền.
Thưa quí vị, khi nói đến
ư nghĩa của bài kệ này, chúng ta có thể tóm tắc
như vầy : có những vị
học kinh điển rất
nhiều, nhưng mà sự học nhiều và hiểu
về kinh điển này, quả thật nói chỉ hiểu
về sơ lượt, chỉ cho đến khi nào người
ta thật sự nếm được hương vị
của giáo pháp, thật sự thiết lập đời sống
của ḿnh ở trên giáo pháp và điều này không nhất
thiết phải là một vị học nhiều hiểu rộng,
mà chỉ người thật
tu thật chứng, và thật sự làm những ǵ ḿnh tin
tưởng th́ điều đó mới mang một giá trị
thật sự.
Nên trong truyền thống của
Đạo Phật, mặc dù chúng ta có những học vấn
truyền thống mang tính cách trường lớp, ví dụ
như những lớp học
ở tại Thái Lan về Phạn ngữ, về Pháp và Luật,
hay những trường học
ở tại Tây Tạng, chúng ta có chương tŕnh 17
năm tại Garden Shatse, hoặc giả chúng ta có nhiều
trường Phật học được tổ chức
khắp nơi trên thế giới, trong đó phải kể
rằng Nhật Bản và Nam Hàn ngày nay có một số
lượng lớn các trường đại học Phật
Giáo. Nhưng những trường
đại học này không nói được giá trị về
sự tu tập và chứng đắc của Đạo Phật,
bởi v́ đây là một điểm rất lạ nó
tương tựa như một người sống
đi du lịch, họ có thể đi rất nhiều
nơi, và họ có thể tiếp xúc với rất nhiều
người khác nhau, nhưng mà chưa chắc họ đă
thật sự hưởng thụ cái văn hoá nào mà ở
mức độ chiều sâu của nó, trong khi có những
người tuy rằng họ không đi nhiều nơi,
nhưng họ có thể tiếp cận với một số
người nào đó bằng tâm thái, bằng thần thái rất
đặc biệt v́ vậy họ cảm nhận
được một cách sâu sắc, có thể nói trường
hợp này chúng ta gặp đuợc rất nhiều người,
và trong cuộc đời lưu lạc có thể nói rằng
họ đă 5 lần 7 lượt, từ Bắc vô Nam, rồi
từ miền Nam ra nước ngoài, rồi đi định
cư tại đệ tam quốc gia. Cuộc đời họ
có thể tiếp xúc với rất nhiều trường hợp,
nhiều cảnh huống, nhiều sự việc, nhưng
chúng ta không cảm thấy rằng họ có cảm nhận
sâu sắc về hoàn cảnh xảy ra chung quanh họ.
Trái lại chúng ta cũng gặp
những người có một cuộc sống rất b́nh
dị, họ lớn lên tại một miền quê hẻo
lánh của một quốc gia nào đó, nhưng sự cảm
nhận của họ với các sự việc chung quanh rất
là xâu sắc, họ có thể nói về những lời
chiêm ở trong làng, họ có thể nói về cảnh trí của
quan cảnh mặt trời mọc, mặt trời lặng
như thế nào, và thậm trí họ có thể hiểu một
cách rất là sâu sắc về những người sống
ở trong làng như thế nào.
Th́ như vậy cho chúng ta thấy rằng cái lượng
và cái phẩm nó không nhất thiết là tương
đương với nhau, có nhiều khi người ta chú
trọng về lượng mà không chú trọng về phẩm
và đặc biệt ở trong giá trị tinh thần, Đức
Phật Ngài cho chúng ta biết rằng điều này là một
thực chứng thực hơn bất cứ điều
ǵ khác mà chúng ta được biết.
Ở trong sự
tu tập có lúc đôi lúc một người chỉ thọ
tŕ một pháp tu, hay thọ tŕ một cảnh giới nào
đó, như chúng tôi có dịp được sống gần
những vị chỉ chuyên về tŕ luật thôi. Nếu
một người nào đó trong chúng ta nghe nói ngày hôm nay mà
chỉ ôm bộ luật Thiện Trí chẳng hạn, để
mà tu tu tập th́ chúng ta mường tưởng đó là một
người có một cuộc sống hết sức khắc
khe, tỉ mỉ, người đó chỉ sống bó gối
ở trong khung trời hạn hẹp, nhưng mà không
thưa quí vị, khi mà chúng ta ở gần những vị
đó, chúng ta mới cảm nhận được cái niềm
tin, chúng ta mới cảm nhận được sự lănh
hội, chúng ta mới cảm nhận được sự
xâu sắc của một người thọ tŕ về luật.
Có một lần
chúng tôi nghe một vị Thầy, sau hơn 19 năm sống
dưới chân của Ngài Achaan Cha. Ngài nói về một sự việc,
những ai hộ tŕ giới luật, th́ người đó
sẽ được giới luật hộ tŕ, bởi vị
này đă sống trong một thời gian dài như vậy,
và khi vị này nói th́ nói với tất cả cái kinh nghiệm
của ḿnh. Chúng tôi nghĩ bất
cứ ai được nghe bài pháp đó th́ đều nhận
ra rằng vị đó đă đạt đến một
cảnh giới xâu sắc, không có đơn thuần
như chúng ta nghĩ rằng, ḿnh đi tu th́ ḿnh phải học
đủ tam tạng kinh điển, ḿnh phải là một
vị Pháp Sư, hay ḿnh là một vị Thiền Sư, ḿnh
phải có một tầm cở như thế này, ḿnh phải
có địa vị như thế kia, phải có bằng cấp
cao nào đó hay là tác gỉa của
nhiều quyển sách.
Thật ra th́ những điều
này nó có một giá trị rất tương đối về
cái nh́n của thường thức, dĩ nhiên chúng ta không
thể có cái ǵ đó để có thể đo đạt
cái khả năng sâu sắc của một người họ
đă tiếp xúc thật sự với lời dạy chân
thật của Đức Phật như thế nào, nhưng
chúng ta có thể thấy rơ rằng có những người
học rất nhiều, có những người hiểu rất
rộng, nhưng người đó lại không nếm
được hương vị của chính pháp, đối
với người này th́ chính pháp chỉ là gánh nặng
đối với họ, đối với những
người này th́ chính pháp là khu vườn lớn mà họ
phải bỏ ra quá nhiều th́ giờ để mà bảo
tŕ, thậm trí Đức Phật Ngài dùng h́nh ảnh giống
như người mục đồng chăn ḅ cho người
khác, dĩ nhiên đàn ḅ càng lớn th́ ḿnh chăn càng cực
khổ, tuy nhiên dù cực khổ đến đâu th́ ḿnh chỉ
chăn ḅ cho người khác, chứ bản thân của ḿnh
lại không hưởng được bao nhiêu.
Nên chi khi chúng tôi nói đến
quan niệm giá trị của Đạo Phật, th́ phải
nói rằng có rất nhiều điểm làm cho con người
phải ngạc nhiên, không may rằng
trong việc canh tân Đạo Phật, trong cái việc chúng ta
nói tới đem Đạo Phật vào trong cuộc đời
ngày hôm nay, th́ càng lúc người ta càng chú trọng đến
bằng cấp, đến học vị và những
chương tŕnh học Phật mang tính cách trường lớp,
thật ra th́ điều này nó vẫn có giá trị nhất
định của những thứ này, nhưng bên cạnh
đó chúng ta cũng lấy làm buồn mà thấy rằng
khi người ta quá chú trọng đến trường lớp,
th́ người ta quên rằng Phật Pháp là một cái ǵ mà
có thể cảm nhận một cách sâu sắc, không những
cảm nhận một cách sâu sắc mà c̣n sống với điều
đó nữa.
Thưa qúi vị, chúng tôi muốn
chia sẻ kinh nghiệm này đến với quí vị khi
mà chúng tôi tiếp xúc với một số nhà Sư ở tại
Anh Quốc và ở tại Hoa Kỳ và ngay ở Úc Đại Lợi
cũng vậy, chúng tôi biết rằng có nhiều vị học
rất giỏi, có 5, 7 bằng tiến sĩ, bằng cao học
về Phạn Ngữ, về Hindi hoặc giả về Phật
học, về văn chương Anh ngữ, nhưng các vị
này đă không đủ sức thu hút , hoặc giả khai
thị cho những người Phật tử Tây
Phương, hay những người Tây Phương muốn
t́m về với Đạo Phật.
Trái lại những người Tây Phương họ
lại t́m đến những vị tuy rằng không có học
vị cao, không có bằng cấp nhiều, nhưng họ nghĩ rằng những vị
này thật sự sống trọn vẹn với những
ǵ những vị này tin tưởng. Ở trong đó phải
kể đến Ngài Achaan Cha là một vị Thiền
Sư mà thưa quí vị, tŕnh độ của Ngài chỉ
khoảng chừng lớp ba trong ngành học phổ thông
mà thôi, nhưng đời sống
tu tập và cái trí tuệ Ngài cống hiến qua đời
sống thực của Ngài đă có một sức hút mănh liệt
và có thể nói trong lịch sử cận đại
chưa có một v́ Thiền Sư nào mà có ảnh hưởng
lớn đến những người Phật tử Tây
Phương, như chúng ta được biết và chúng ta
được nghe về trường hợp Ngài Achaan Cha.
Do vậy chúng ta phải đặt
trở lại vấn đề rằng ở trong Đạo
Phật nếu chúng ta nghĩ đến chiều rộng,
nghĩ đến pháp học th́ phải nói rằng có rất
nhiều kinh điển, có rất nhiều lănh vực
để chúng ta t́m hiểu. Nhưng bên cạnh đó chúng
ta đừng quên rằng có những pháp hành, ví dụ
như một người thọ bát quan trai, một đêm
hành tŕ đầu đà, hay một khoá thiền hay những
giờ giấc tụng kinh, niệm Phật, hoặc giả có cái ǵ đó khiến chúng ta gắng
bó với đạo, chúng ta sống gần với đạo
và chúng ta thật sự thể hiện được
đạo bằng chính cuộc sống của ḿnh, th́ những
lúc đó mới là lúc thật sự sống với những
ǵ ḿnh tin tưởng hơn là chỉ một niềm tin ở
bên ngoài. Và quan niệm này đă khiến cho Đức Phật
mở ra một chân trời mới, ở trong chân trời
mới này Đức Phật Ngài đă cho phép nhiều
người từ nhiều tầng lớp khác nhau ở
trong xă hội để trở thành những vị Tỳ
kheo, Tỳ kheo Ni, và có thể những vị cư sĩ,
những nam cư sĩ, nữ cư sĩ hành tŕ mà không có
phân biệt nhiều về giai cấp, về địa vị
học vấn của họ.
Gucatata là một tỳ nữ
trong cung, Ambapaly
là một kỹ nữ, và chúng ta biết Upali là một
thợ hớt tóc trong cung đ́nh, Angulimala là một tướng
cướp sát nhân có một hồ sơ lư lịch đầy
tội ác, nhưng mà tất cả những người
đó đều được Đức Phật Ngài cho
phép có được cơ hội để sống với
chính pháp, không những chỉ hoàng lương mà c̣n có thể
t́m về để đón nhận ánh sáng thật sự của
chính pháp. Th́ ở đây
thưa quí Phật tử, cái sự lănh hội đạo,
cái sự thấm nhuần của đạo đôi lúc nó
vượt ngoài ngôn ngữ, nó vượt ngoài bất cứ
điều ǵ mà chúng ta có thể quan niệm theo cách quan niệm
trong thời đại ngày hôm nay.
Thật ra th́ chúng tôi có nghe một vị Thầy hiện
là khoa trưởng khoa Phạn ngữ của Đại học Ananda ở
tại Ấn Độ, khi chúng tôi đến thăm viếng
đại học Ananda th́ vị này có than rằng ngày
xưa khi Ấn Độ vùa mới dành được độp
lập và dưới sự khuyến khích của thủ
tướng Meru. Lúc bấy giờ Ngài Kasac được
mời làm viện trưởng, lúc đó Ngài cho rằng
đă đào tạo được một số Chư
Tăng, và trong số các vị Chư Tăng này có kể cả
Chư Tăng Việt Nam, trong đó có Hoà Thượng Minh
Châu, Ḥa Thượng Minh Châu là viện trưởng viện
Vạn Hạnh về sau này.
Vị này nói rằng
thời của Ngài Kasac, những vị đó không học
nhiều môn như bây giờ, nhưng những vị đó
ngoài các môn học ra c̣n thêm một thứ khác đó là đạo
tâm rất thuần. C̣n
bây giờ số lượng các vị Tăng sĩ học
khá hơn ngày trước, thậm trí có nhiều vị
đă tŕnh những luận án tiến sĩ ,và
mọi người đều rất được tán
thưởng, nhưng mà theo vị này th́ các phẩm chất
tu tập cũng như niềm tin của các vị học
Tăng tại đại học Ananda bây giờ không so sánh
được với các vị học thời khi Ngài Kasac
c̣n sinh tiền.
Thưa quí vị về việc
này đó là một cái hiện tượng chúng ta thấy rất tự nhiên ở hầu như tất
cả các tôn giáo, có nhiều người khi nghiên cứu về
lịch sử Ky Tô giáo, cũng cho rằng những lời
dạy của chúa Jesu đă dạy, lúc chúa Jesu c̣n sinh tiền
rất giản dị như
người ta đọc trong kinh Tân Ước,
nhưng về sau này khi đưa vào LaMă, Vương triều La Mă và Giáo hội
La Mă đă tạo ra hệ thống thần học, mà theo
đó nhũng nhà nghiên cứu ngày hôm nay cho rằng những
hệ thống thần học này
lại không có tác động ǵ về niềm tin bằng
thời xa xưa, chúng ta muốn nói đến thời
đại chính thống giáo Phương Đông hoặc giả
như thời của Thánh St.
Paul chẳng hạn, mặc dù là nhận định như
vậy , nó c̣n phải nghiên cứu nhiều sự dị biệt
giữa đông và tây.
Chúng ta thấy rơ ràng ngay trong
Đạo Phật, khi Ngài Ca Diếp cũng có một lần đă
bày tỏ sự không hài ḷng về sự việc Phật Giáo phát triển rất
đông vào năm 25 năm sau cuộc đời hoàng đaọ
của Đức Phật, nhưng mà phẩm chất của
các vị Tăng đă rất kém so với 20 năm đầu,
và điều này là một điều rất tự nhiên. Tuy nhiên ở chỗ như vầy
khi chúng ta đặt vần đề học nó trở
thành một sở nghiên cứu mang tánh cách chiều rộng,
khảo cứu nhiều hơn là một giáo pháp, là cái ǵ
để chúng ta sống, để chúng ta trưởng
dưỡng đời sống nột tại của ḿnh
để thanh lọc phiền năo, để làm cho chúng ta
có khả năng sống sáng suốt hơn, nhẫn nại
hơn trong cuộc sống, th́ thưa quí vị chúng ta bắt
đầu đi xa ngoài giáo pháp, nếu chúng ta chú ư một
chút th́ chúng ta sẽ thấy trong truyền thống tu tập
mà Chư Phật dạy cho
đàn hậu tấn, trong đó có lời dạy mà mới
nghe th́ chúng ta nghĩ nó không có sâu sắc, không có mang tánh cách
vi diệu thâm sâu như những
môn triết lư.
Ví dụ như Đức Phật
Ngài dạy ăn uống có tiết độ, và không biếng
nhác phải tinh cần, và con người nên sống ở
nơi độc cư thanh tịnh , đặt biệt
Ngài chú trọng nhiều đến sự nhẫn nại,
nhẫn nại là một trong sự thể hiện của
đạo ở trong đời sống hàng ngày của
chúng ta, phải nói rằng chính một vài yếu pháp, thí dụ
như về nhẫn nại cho phép chúng ta chiêm nghiệm Phật
Pháp ở một mức độ hiện thực hơn
là ư thức, ở bên ngoài chúng ta thấy rất nhiều vị rất giỏi về Phật Pháp,
nhưng mà vị này thiếu kiên nhẫn, thiếu sự chịu
đựng , bởi v́ vị này
đă học Phật Pháp
hoàn toàn dựa trên lư thuyết. Nhưng nếu
chúng ta sống trên sự kiên nhẫn và nhẫn nại
đối với sự tu tập th́ chúng ta sẽ thấy
rằng Phật Pháp gần với chúng ta nhiều hơn. Cũng như Đức Phật Ngài
đă dạy trong Trung Bộ Kinh rằng một vị Tỳ
kheo khi mà đầy đủ tứ vật dụng, đầu
đủ tứ sự cúng dường mà vị ấy tu tập
tinh tấn th́ Như Lai chưa gọi vị ấy thật
sự là thuần cố, cho đến khi nào vị ấy
sống trong điều kiện khó khăn mà vị ấy
vẫn chứng tỏ được khả năng thiện
trí của ḿnh th́ Như Lai mới gọi là vị đó là
vị đă xây dựng được cơ sở căn
bản về niềm tin, về giới, về thiền
định. Th́ ở đây
thưa quí vị có một vài điều đối với
chúng ta không có quan trọng .
Chúng tôi mới vừa sang Úc
Đại Lợi và đến thăm nhiều thành phố lớn
trong đó có thành phố Sydney
, trong cái quan sát th́ chúng tôi thấy một điều
rằng ngày hôm nay người ta thường kính trọng
lẫn nhau qua chùa chiền, qua cơ sở và qua khả
năng về tài chánh nhiều hơn qua đức độ tu tập,
chúng tôi ví dụ trong những buổi sinh hoạt, vị
nào có chùa lớn, có tầm hoạt động rộng, th́
được nể nang hơn
những vị có đời sống khiêm cung, có cuộc
sống hết sức giản
dị, hết sức nhẫn nại, cái thời thế,
cái quan niệm về xă hội thay đổi, chứ chúng
ta không nh́n thấy được giá trị chân thật
như thời xưa.
Nhưng chính lời dạy
này của Đức Phật đă kéo chúng ta trở về
đúng với thực tại, là nếu mà chúng ta có những
thành tựu ở trong cuộc đời sống này, mà sự
thành tựu đó không thể hiện được những
ǵ mà Chư Phật đă dạy trong Trung Bộ Kinh , như hồi năy chúng tôi đă nhắc
đến sự tiết độ trong ẩm thực, sự
nhẫn nại hoặc thích sống độc cư v.v..
không có một số thể hiện
căn bản th́ chúng ta chưa gọi là người thật
sự tiếp xúc với chánh pháp, bởi chính những
điều đó mới thách thức cái sự nhập cuộc
của bản thân chúng ta, khi mà chúng ta sống trong điều
kiện như vậy, ví dụ đời sống độc
cư không phải là đời
sống dễ dàng, chúng ta thường sống vây chung quanh
ḿnh bởi tín đồ, bởi Phật tử, bởi những
người thân, cho đến một lúc nào đó chúng ta sống
nơi hoang dă, sống một ḿnh, mặt đối mặt
với chính ḿnh th́ lúc bấy giờ chúng ta mới hiểu
rằng cuộc sống đó không phải chỉ đ̣i hỏi
sự cố gắng mà đ̣i hỏi sự chung thực, một
cái nh́n rất thành thực về ưu điểm, về
nhược điểm của bản thân ḿnh và không may những
điều đó nó không c̣n có nhiều cơ hội cho chúng
ta trong cuộc sống tu tập ngày hôm nay.
Chính v́ vậy ở đây
trong duyên sự này nói về một vị Tỳ Kheo thuộc
có một bài kệ thôi, và thật sự trong kinh thường
nói rằng vị này được người ta cho một
biệt danh là vị Tỳ kheo nhất cú, chỉ thuộc
một bài kệ thôi, nhưng bài kệ này đă không phải
là bài kệ được nói ở đầu môi chót
lưỡi, mà vị này thật sự đă sống với
bài kệ đó và do vậy khi vị này đọc bài kệ
đó và giảng bài kệ đó không những nhiều
người chung quanh mà Chư Thiên cũng hoan hỷ.
Thưa quí vị chúng tôi biết
ngày xưa có những vị mà khi thuyết pháp chỉ nói
vài câu thôi, chúng tôi được may mắn ở trong đời
sống có gặp một vài vị như vậy mà chúng tôi
tin rằng khi chúng tôi đơn cử ra đây một vị
có lẽ quí Phật tử có nhiều vị cũng đă từng
gặp, thưa quí vị đó là Ngài Hoà Thượng Hộ
Tông, Ngài không phải là vị Pháp Sư. Một thời pháp, th́ thưa quí
vị có nhiều khi Ngài thuyết rất ngắn, và những
lời Ngài dạy có đôi khi chỉ có vài lời la rày,
nhưng mà đều có ảnh hưởng, có tác dụng rất
lớn và Ngài độ được rất nhiều
người, và có thể nói rằng ở mỗi vị
Tăng chúng ta học được điều nào đó
nhưng mà với Ngài Hộ Tông th́ phải nhận rằng
h́nh ảnh của Ngài chứng tỏ rằng Ngài là một
người thực sự sống với niềm tin, và
bên cạnh đó th́ một vị mà ở đức tu
đă cảm hóa được nhiều người không
qua nhiều ngôn ngữ như
chúng ta có vào ngày hôm nay. Phải gặp và
phải sống gần những vị đó dù một ngày,
hai ngày, một tuần, hai tuần th́ chúng ta mới thấy
ảnh hưởng lớn của điều mà Đức Phật
Ngài dạy rằng sự thấm nhuần chính pháp ở
trong đời sống của chúng ta.
Chúng tôi cũng muốn nhân
đây nhắc lên h́nh ảnh của một số các bà cụ
ngày xưa quan niệm về sự tu tập rất đơn giản, ở nhà th́ thắp
nhang, tụng kinh niệm Phật và rồi đi chùa,
trước khi đi chùa, th́ tắm sạch sẽ và mặc
đồ trang nghiêm, bước vào trong chùa bằng thái
độ cung kính lễ Phật, lạy Phật rồi
cúng dường được cái ǵ th́ cúng, không th́ công quả,
nếu ngày hôm nay quí Phật tử nghe một số người
khác đề cập đến những bà cụ này th́ thật
sự quí vị cũng rất
đau ḷng, bởi vậy có đôi lúc người ta gọi
những bà cụ này là những bà già trầu, những bà
già trầu là những người nhẹ dạ, những
người chỉ nói qua loa ngoài miệng nhưng lại
không có sự sâu sắc, nhưng mà khi sống gần các cụ
th́ chúng ta có thể cảm nhận được rằng
cái tâm trong sạch của các cụ th́ chúng ta không thể phủ
nhận được , và các vị sống gần với
đạo ở trong sự an lạc, ở trong niềm
tin, kể cả ở trong cơn nguy biến.
Chúng ta được biết nền giáo dục ngày hôm
nay đào tạo nhiều học giả hơn là những
người Phật tử thực tu thực chứng, học
giả ở đây thưa quí Phật tử, có một lần
chúng tôi đến thăm một đại học ở
Santa Barbara ở California, lúc đó chúng tôi được giới
thiệu về một vị khoa trưởng về ngành
triết học Đông Phương và trong đó có thêm hai vị
giáo sư , hai vị này là tác giả của bốn, năm
quyển sách viết về Đạo Phật, cũng dạy
ngành tôn giáo Đông Phương, lúc bấy giờ khi nói chuyện
với những vị đó, những vị đó không những
có bằng cấp mà kiến văn cũng rất quảng
bác, kể cả Phạn ngữ các vị cũng rất là
giỏi, nhưng mà chỉ một cuộc đàm luận
th́ chúng ta thấy rằng họ chỉ là những học
giả không hơn, không kém, thật sự họ có thể
giỏi hơn rất nhiều nhà sư, nhưng mà rồi
đời sống của họ
không thể so sánh được với một bà già
trầu như người ta
thường đề cập đến, bởi v́ những
vị này chỉ nghiên cứu, và Phật pháp của những
vị này chỉ là chữ nghĩa không hơn không kém và nó
không có một cái ǵ ở trong đó mà có thể chuyển
hóa được.
Bằng chứng là chúng tôi có
đưa ra một câu hỏi với một vị giáo
sư đă dạy ở đại học đó suốt cả
mười bốn năm, họ có bao nhiêu học sinh ở
trong lớp của giáo sư mà từ lớp học đó
ra trở thành những người Phật tử, th́ vị
này lắc đầu nói rằng :
- không có vị nào hết, và tôi có
nhớ rằng có hai ba người đến với Đạo
Phật và sau đó trở thành Phật tử, nhưng mà
không phải do lớp học tôi đào tạo, mà là do họ
đi hành thiền với Ngài Mahasi.
Th́ thưa quí vị tại sao
những người học giả họ chỉ có thể
tŕnh bày, họ chỉ có thể viết sách cho chúng ta , mà họ không thể đưa những
người khác trở về với Đạo Phật
như những nhà Sư ít học
hơn họ nhiều, và điều này rất dễ để chúng ta cảm nhận ở trong
cái nhận định mà chúng ta thường thấy trong
cuộc sống hàng ngày.
Bây giờ chúng tôi xin được
trở lại với ư nghĩa của bài kệ này, đây
là bản dịch của TT Trí Siêu.:
Không phải do nói nhiều
Mà thành bậc tŕ pháp
Người tuy nghe học ít
Như tựa thân thấy pháp
Hành pháp không buông lung
Ấy là bậc tŕ pháp.
Bậc tŕ pháp ở
tại đây được hiểu là một vị thật
sự thấm nhuần, và vị này có thể nói rằng
đă không có xao lăng, không có buông lung. Khi chúng ta xao lăng buông lung là chúng ta
chưa thật sự thấy giá trị quí báu, chúng tôi lấy
ví dụ hồi nhỏ chúng tôi rất là thích nghe đọc
chuyện Tàu vào đêm khuya và khi lớn lên chúng tôi hiểu một
điều rằng, không phải v́ nghe chuyện Tàu mà nó có
một cái âm giai ǵ đặt biệt, mà đặt biệt
là chỗ nghĩa lư ở chỗ cốt chuyện với
tuổi của chúng tôi lúc đó mà được nghe câu
chuyện như vậy, th́ thưa quí vị, bốn giờ
sáng thức dậy để nghe đọc chuyện mỗi
ngày, những quyển truyện như là Phong Kiến Xuân
Thu, Xuân Thu Oanh Liệt, Vạn Cô Lầu, Tam Quốc Trí,
đó là những tập chuyện mà ngày xưa, trước
75 chúng tôi được nghe và nhớ, sau này đọc
sách, nếu thật sự chỉ đọc sách có lẽ
không nhớ nhiều bằng lúc đó đang nghe bằng
tâm rất là tha thiết mong mỏi, khi người ta thật
sự thấy một điều ǵ, người ta sẽ
tha thiết với điều đó, và người ta sẽ
sống trọn vẹn với điều đó chứ
không có phải là ai bắt buộc ḿnh hết, th́ với một
vị hành pháp không buông lung th́ điều đó chứng tỏ
rằng vị này đă có một cái nh́n rất là thông suốt
nếu chúng ta biết nó có giá trị ǵ đó th́ chắc chắn
là chúng ta không bao giờ chúng ta bỏ cuộc hết.
Chúng tôi có nhớ ở tại
vùng Caribean có một ḥn đảo, mà ngày hôm nay vẫn c̣n mệnh
danh là The Castle Island, ḥn đảo đó theo trong một số
hồ sơ ghi chép đó là ngày xưa những người
cướp biển sau khi họ đánh cướp những
chiếc tàu buôn lấy được vàng bạc châu báu th́
họ đem vào ḥn đảo này nó là một nơi nằm
ngoài kiểm soát của hải quân Anh và sau đó là hải
quân của Hoa Kỳ, hải quân của Tây Ban Nha, để
họ chôn giấu những tài sản. Tất nhiên là có một con số
lớn những người chôn dấu tài sản không có dịp
trở lại để lấy tài sản tại v́ đă
mất mạng ở trong những cuộc chiến đấu
khác, trong những cuộc cướp bóc khác xảy ra trên
biển cả và điều này đă khiến cho rất là
nhiều người v́ hiếu kỳ cũng có mà đa số
là v́ muốn làm giàu, đă đặt chân đến ḥn
đảo này cố gắng t́m ra tông tích, cố gắng
t́m ra cái ǵ đó cho họ thấy rằng hứa hẹn một
cái tài sản kếch sù, một thứ hoạnh tài mà họ
có thể t́m trên The Castle Island ḥn đảo được
mệnh danh là ḥn đảo châu báu, thưa quí vị có
đọc những câu chuyện của những người
đă từng đến đó và phải vật lộn với
thiên nhiên khắc nghiệt như thế nào rồi họ
phải tự bảo vệ lấy mạng của họ
như thế nào trong cuộc đi t́m vàng, cũng như
bao nhiêu câu chuyện mà những người đi về những
nơi đào vàng ở Cựu Kim Sơn, hay là ở Yukon,
Alaska th́ chúng ta mới thấy rằng hễ con người
mà thấy được giá trị điều ǵ th́ họ
tha thiết với điều đó, và khi họ thật sự
tha thiết với điều đó rồi th́ không có cái ǵ
có thể cản họ được họ hết.
Chúng tôi có nghe nhiều Phật
tử thỉnh thỏang họ là muốn tu thiền hay là
muốn hành đạo nhưng mà không có điều kiện,
những người này luôn luôn có một số lư do và dĩ
nhiên là những lư do này đều là những lư do chánh
đáng, thí dụ như có mẹ già đang đau bệnh
không thể đi tu tập được, nhưng mà rồi
chúng ta cũng phải nhận rằng đa số chúng ta
không có làm được điều mà chúng ta gọi là tu tập
là bởi tại v́ chúng ta chưa thật sự thấy
được giá trị, nếu chúng ta thấy được
giá trị của chánh pháp th́ thưa quí vị dù rằng có
bị ngăn cản năm bảy lớp rào th́ chúng ta cũng
cố vượt qua. "Mấy sông cũng
lội mấy đèo cũng qua ". Nhưng mà khi chúng ta chưa cảm
nhận thật sự th́ chúng ta giống một thái độ
mà có thể dùng ngôn ngữ dân gian gọi là thái độ chập
chờn, chập chờn tức là lăng băng đi ra đi vào
nhưng mà thật sự chưa có cương quyết,
chưa có một quyết định ǵ gọi là thật sự
để chúng ta theo đuổi hết th́ điều này
làm một điều rất đáng tiếc ở trong cuộc
sống của ḿnh.
Bây giờ trong câu kệ này
chúng tôi nghĩ rằng mạch văn rất là dễ hiểu,
dễ hiểu đến đỗi chúng ta chỉ đọc
một lần, chúng ta có thể thấy được
Đức Phật Ngài ư Ngài muốn dạy điều ǵ,
không phải do nói nhiều mà thành ra bất kỳ pháp,
xưa nay chúng ta nghĩ rằng những vị Pháp Sư diễn
giảng Phật Pháp, nói nhiều nói hay th́ điều
đó mới là vị tŕ pháp, nhưng câu kệ ngôn này Đức
Phật Ngài lại nêu lên một giá trị khác, cũng có thể
làm cho một số người ngạc nhiên,
Người tuy nghe học ít
Nhưng tự thân
thấy pháp
Hành pháp không buông lung
Ấy là bậc tŕ pháp
Bởi v́ vị ấy
thật sự làm chứng cho chánh pháp. Đức Phật Ngài
dạy rằng Ngài đă đi qua con đường đó
và đạt đến điểm đó th́ chính những
người này mới là những người thật sự
làm chứng cho lời dạy của Đức Phật. Khi mà chúng tôi nói điều này có
nhiều Phật tử rất là ngạc nhiên, khi chúng ta đọc về ân đức
của Tăng bảo tức là những vị thinh văn
đệ tử Phật, thật ra ư nghĩa thinh văn
đệ tử Phật không có đơn giản, ư nghĩa
thinh văn để tử Phật các Ngài ( Supatpanno ) là bậc
diệu hạnh, ( Ujupatipanno ) là bậc trực hạnh, (
Năyapatipanno ) là bậc như lư hạnh, ( Sămĩcipatipanno )
là bậc chân chánh hạnh, nhưng mà trong đó c̣n nói thêm nữa
các Ngài gồm có bốn đôi tám vị, tứ song bát bối,
tức là những vị đă chứng Tu Đà Hườn
đạo, Tu Đà Hườn quả, Tu Đà Hàm đạo,
Tu Đà Hàm quả, A Na Hàm đạo, A Na Hàm quả, A La Hán
đạo, A La Hán quả, các vị đó mới thật sự
gọi là Tăng, các vị đó mới thật sự là
những vị Thinh Văn đệ tử Phật, cho
dù những vị hữu học,
tức đang trên con
đường dẫn đến giác ngộ và những vị
đă giác ngộ hoàn toàn tức là chứng tứ quả,
th́ khi nói đến điểm này th́ cho chúng ta thấy một
điểm là Đức Phật Ngài nhấn mạnh rất rơ rằng một vị thật sự
hành tŕ pháp không phải là vị Tam Tạng Pháp Sư, ở
đây không có ư nghĩa công kích
những vị học nhiều, nhưng mà chính những vị
thực chứng th́ những vị đó mới là thành viên
ở trong Tăng hội thật sự bởi v́ sao, những vị này đă tự
ḿnh ngộ, và đă tự ḿnh nếm được
hương vị của chánh pháp, chánh pháp đối với
vị này không có suy chuyển, không có một mảy may nào gọi
là thối chuyển hết do vậy những vị này mới
thật sự là những vị được xem như
là thành viên của Tăng già, dĩ nhiên chúng ta quan niệm ở
đây là (Ariyasangha ) tức là
Thánh Tăng.
Khi mà nói đến Tăng theo
qui ướt từ bốn vị Tỳ kheo trở lên
đó là một h́nh thức khác, nhưng nếu chúng ta đọc kỹ
lại ân đức Tăng th́ chúng ta sẽ thấy ngụ
ư của Đức Phật Ngài dạy ǵ, " tự thân
ḿnh thấy pháp, hành pháp không buông lung, ấy là bậc tŕ
pháp". Nếu chúng ta thấy
một người Phật tử họ đi chùa làm
phước trai Tăng, mà trong thái độ cúng dường
trai Tăng tạo phước của những người
này, những người này thật sự sống trọn
vẹn th́ những người đó mới duy tŕ giáo pháp,
c̣n những người chỉ khuyến khích người
khác bố thí mà không làm được việc đó th́ vị
này chỉ sống hờ thôi, chứ không có thật sự
sống, hay hoặc giả một người có thể sống
một ngày bát quan trai và họ hết sức an lạc với ngày bát quan trai
đó, hoặc giả họ
đi một khoá thiền, và họ t́m thấy rằng ở
trong Đạo Phật ngoài kinh điển ra th́ c̣n có ǵ
để áp dụng trong đời sống hàng ngày, nên
chính những người hành pháp là người làm cho Phật
Pháp được hưng thịnh, hưng thịnh ở
đây là hưng thịnh ở trong ḷng họ trước
hết, và trong cái sự hưng thịnh đó nó mới có
khả năng truyền đạt được đến
cho người khác và Đức Phật Ngài nói bậc tŕ
pháp ở đây được bao gồm cả hai
phương diện, về phương diện tự thân
và luôn cả phương diện đối với tha nhân,
tức là tự bản thân ḿnh đă là một người
sống trong pháp ǵn giữ chánh pháp ở nơi tự thân
ḿnh và c̣n duy tŕ được chánh pháp ở trong cách nói
chung
Chúng ta đang đọc ở
trong phẩm Pháp Trụ và chúng tôi tin rằng quí Phật tử
đă được nghe các vị giảng sư nói về
ư nghỉa của chữ Pháp Trụ. Bây giờ chúng ta chỉ nói một
ư nghĩa rất
nhỏ để làm sáng tỏ thêm ư nghĩa bài kệ
này. Nếu mà chúng ta đến
một nơi nào mà chúng ta chỉ biết có một con
đường hay một việc ở tại đó th́
chúng ta chưa có thể gọi là một cư dân ở tại
đó được cho đến khi nào chúng ta ổn
định công ăn việc làm biết đường
đi nước bước, biết được cuộc
sống thật sự ḿnh sống ở trong đó rồi
th́ ḿnh mới là cư dân của thành phố đó. Th́
tương tựa như vậy, nhiều người ở
trong chúng ta khi
bước vào ngôi nhà chánh pháp chúng ta măi măi là một người
khách lạ, một người khách lạ đó là một
người khách e dè, một người khách không t́m thấy
rằng ở trong căn nhà chánh pháp đó có cái ǵ thắm
thiết đối với chính ḿnh, có cái ǵ thật sự
liên quan mật thiết đối với đời sống
của ḿnh.
Chúng tôi có một vị sư
đệ, vị này rất ham đọc sách, mỗi lần
chúng tôi đi đến tiệm sách với vị này, chúng
tôi nh́n thấy cặp mắt của vị này rất sáng khi gặp một tựa sách mới,
khi gặp một quyển sách hay, phải nói rằng khi mà
nh́n thái độ của vị này th́ chúng tôi biết vị
này sống đối với sách vở như thế nào bởi
v́ cách sống, cái cảm xúc và sự gắn bó rất dễ
dàng để nhận định, để nhận thấy
trong đời sống của vị đó, th́ vị
đó mới thật sự là sống với văn hoá, sống
với Phật Pháp, th́ thưa quí vị đối với
chúng ta, chúng ta cũng phải lập đi lập lại rất
nhiều lần rằng chúng ta nghe pháp, chúng ta có đọc
kinh sách, chỉ có thể mua cả tủ kinh sách mua về
nhà, nhưng mà rồi chúng ta phải đặt lại vấn
đề những thứ đó nó có giá trị lớn với
chúng ta như thế nào.
Chúng tôi có bắt gặp h́nh ảnh
hết sức cảm động, có một người Phật
tử đi vượt biển, năm 1980, lên trại tỵ
nạn BuLaBiDong, lúc đó quí vị đó lên trước
chúng tôi hai tháng, chúng tôi lên sau , có một buổi chiều vị
đó lên đồi tôn giáo, nơi đó có ngôi chùa Từ
Bi nơi chúng tôi đang ở,
mang cho chúng tôi một cuổn kinh Nhật Hành, Kinh Nhật
Hành do Ngài Hộ Tông soạn và do Hoà Thượng Pháp Tri Ấn
Tống lại với suy tập một số các lời dạy,
chúng tôi sống ở trại tỵ nạn mấy tháng trời
không có kinh sách, bây giờ nh́n thấy kinh sách Nhật
Hành trong ḷng vui, rộn ră lắm,
chúng tôi hỏi người Phật tử đó sao đi
vượt biên c̣n mang kinh sách theo đuợc hay vậy, th́
vị này trả lời chúng tôi rằng, " thật ra
đâu có mang được ǵ đâu Sư, ngó tới ngó
lui trong nhà chỉ thấy cái này quí nhất th́ mang theo
thôi", lúc đó chúng tôi thật sự cảm động,
chúng tôi rất lấy làm cảm động, bởi v́ ở
trên đời này chúng ta có nhiều thứ để mang
theo lắm, trong một chuyến đi xa, một chuyến
đi mà rời quê cha đất tổ có thể chúng ta nói đến một vật
kỷ niệm, chúng ta nói đến như một quyển
album trong gia đ́nh nói đến vàng bạc châu báu, nói
đến bao nhiêu thứ, nhưng rồi một người
ra đi trong chuyến đi vô định như vậy
đó, sau khi quyết định bỏ tất cả chỉ
mang theo quyển kinh tụng, phải nhận rằng
người đó có đạo tâm thật sự.
Khi đề cập đến
câu kệ này này bỗng dưng Phật tử đó trở
lại trong ḷng của chúng tôi, chúng tôi lại nghĩ đến
trường hợp của những người sống
bây giờ, chúng ta có quá nhiều thưa quí vị, Phật Pháp
đối với chúng ta có quá nhiều, chúng ta có thể muốn
bao nhiêu kinh sách cũng được, dễ dàng để
mua hơn ngày xưa, thậm chí ở trên internet cũng quá
nhiều, thậm trí những bài giảng trên paltalk cũng
quá nhiều, đôi lúc chúng ta thấy những thứ đó
không thật sự quan trọng đối với chúng ta,
nhưng lâu lâu chúng ta cũng phải nghĩ lại rằng
cái ǵ thật sự quan trọng.
Ở trong cuộc đời
này một người thiện trí, khác với người
không có trí tuệ ở một điểm là người
thiện trí biết
nhận ra rằng cái ǵ có giá trị lâu dài, có giá trị lớn
với chính ḿnh.
Lấy ví dụ như chúng ta
đọc kinh
Châu Báu (Ratanasutta), Đức Phật Ngài mở
đầu bài kệ rằng:
- Phàm ở cơi đời này, hoặc
trên cơi trời không có vàng bạc châu báu, ở nơi thiên giới , hay ở trần gian mà sánh bằng
Phật Bảo, do chơn ngôn này cầu xin được
hạnh phúc.
Th́ thưa quí vị cho đến
lúc nào đó chúng ta nh́n thấy bài kệ này đúng nghĩa
, ở trên đời này dù bao nhiêu vàng bạc châu báu, ở
trên trần gian này, hay ở trên thiên giới th́ không có ǵ
sánh bằng Đức Phật mà chúng ta thấy và chúng ta tụng
đọc và chúng ta tin thật sự như vậy, th́
chúng ta mới gọi là biết được giá trị của
Đức Phật, c̣n nếu không chúng ta chỉ tụng,
chỉ tụng thậm chí có nhiều người v́ tiền,
v́ bạc, v́ cuộc sống mà bỏ Đức Phật, tại
v́ họ không thấy được rằng Đức Phật
Ngài quan trọng với họ ra sao. Chúng tôi
xin kết thúc bài nói chuyện ở tại đây. Nam
Mô Bổn Sư thích Ca Mâu Ni Phật
Minh Hạnh biên soạn