HÂN HOAN ĐÓN CHÀO
Câu 170, ngày 21 tháng 10, 2003
Phẩm
Pháp Trụ - Dhammatthavagga - kệ 258 - Bậc Trí Không Nói Nhiều.
Không phải do nói nhiều
Mà thành bậc hiền trí
Tự tại, không oán
sợ
Xứng gọi bậc trí hiền
TT Trí Siêu giảng : Nam Mô Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật. Kính bạch Chư Tăng, thưa quí Phật
tử, trong bài kệ Pháp Cú 258, ngày hôm nay chúng ta sẽ học
về bài kệ có tựa đề là " Bậc Trí Không
Nói Nhiều ". Ở đây
chúng ta thấy rơ một điểm là trong bài kệ này hoàn
toàn không có từ ngữ nào Đức Phật sử dụng
có liên quan đến phẩm Pháp Trụ (Dhammatthavagga)
như tựa đề dẫn nhập của phẩm thứ
19, ngoài hai câu 256 và 257 mà chúng ta đă học ngày hôm qua. Nhưng thưa quí vị xét cho
cùng th́ chúng ta cũng nhận được một ư nghĩa,
mà ở nơi đây chúng ta t́m thấy có dính dấp đến
một vị trú pháp, nhưng mà vị trú pháp theo tinh thần
của bài kệ ngày hôm nay chúng ta học, th́ trú pháp ở
đây tức là an trú trong pháp của bậc Thánh, an trú trong
sự giác ngộ, an trú trong pháp giải thoát, chớ không phải
trụ pháp hay là pháp trụ mà được đề cập
đến trong kệ 256 và 257 ám chỉ cho những vị
cầm cán cân công lư. Ở
đây trong bài kệ này chúng ta đă được nghe
duyên sự mà vị điều hợp đă đọc lại
cho chúng ta nghe một cách tóm tắt, th́ chúng ta cũng thấy
là đối với một vị thật sự đă
được giải thoát, một vị hành sử tự
tại không gây oan trái với ai và cũng không biết sợ
ai, như vậy mới đáng là bậc hiền trí.
Bậc hiền trí ở
đây là chỉ cho người trú pháp, ở đây chúng ta
cần phải hiểu rằng một người có kiến
thức uyên bác học nhiều hiểu rộng, nói nhiều
cho người khác nghe những điều không lợi ích,
th́ điều này chúng ta không được kể vào ở
đây, bởi v́ bậc trí cho dù Ngài nói nhiều, nhưng
Ngài nói những điều lợi ích đến cho người
khác, khiến cho người khác nghe có sự tịnh lạc,
có sự hoan hỷ, th́ điều này không phải là người
nói nhiều, không phải là người kém trí tuệ, mà
chính đó là người có được kiến thức
uyên thâm, chúng ta nên hiểu như vậy.
C̣n ở đây trong bài kệ
Đức Phật Ngài dạy rằng, không phải do nói
nhiều mà thành bậc hiền trí, ở đây chúng ta hăy
nghe lại duyên sự của bài kệ chúng ta sẽ thấy
rơ, một người chỉ biết nói nhiều, nói huênh
hoang, tự cho rằng ḿnh là người trí th́ người
đó không phải là người trí, không phải chỗ
nói nhiều khoe khoang nhiều mà được gọi là
người trí, chúng ta cần phải hiểu như vậy,
không phải người ít nói thành ra người ngu dốt. Người trí là người hiểu
biết tất cả sự việc, là người có thể
nh́n xuyên thấu mọi vấn đề, nhưng mà người
trí chỉ nói khi cần phải nói và chỉ nói những
điều có lợi ích, có tác dụng mạnh thôi, chớ
không phải gặp đâu cũng nói, nói một cách phi thời
và gặp đối tượng nào cũng nói, nói một
cách không thích hợp với đối tượng, không phải
vấn đề ǵ cũng bàn bạc, những điều
không có lợi ích th́ Ngài không nói, chúng ta cần phải hiểu
bậc trí ít nói là như vậy, và nói nhiều là như vậy. Ít nói ở đây không phải v́ sự
ngu dốt không hiểu biết cho nên không biết việc
ǵ để nói, không biết bàn luận về vấn đề
ǵ, mà hiểu ít nói của bậc trí là sự chế ngự
bản thân ḿnh, như người ta có câu nói rằng
người trí là người mau nghe mà chậm nói, người
xưa có sự nhận xét như vậy và họ b́nh luận
một câu như vậy, không phải là điều vô ích,
không phải là một câu nói tầm thường.
Ở đây thưa quí vị,
quả thật vậy người trí tức là người
khôn ngoan, hễ là người khôn ngoan họ chỉ biết
nói khi nào đáng nói, nhưng mà tất cả những điều
ǵ mà người khác nói, người khác tŕnh bày, người
trí đều lắng nghe cả, gọi là mau nghe nhưng
mà chậm nói bởi v́ trước khi nói phải uốn
lưỡi bẩy lần, suy xét xem có nên nói hay không trong
trường hợp này, và nói như vậy xem nó có ích lợi
hay không ích lợi, nếu như nói những lời nói ích lợi
th́ như vậy sẽ không bị phí mất thời gian,
c̣n khi mà ḿnh nói nhiều, nói một cách phi thời, một
cách vô ích th́ như vậy sẽ làm phí thời gian, mà đối
với người trí th́ xem thời gian là quí giá, thay v́ thời
gian đó để chiêm nghiệm để suy tư, th́
như vậy càng hiểu thông suốt thêm nữa, càng nắm
vững vấn đề thêm nữa. C̣n khi ḿnh nói ra nhiều quá, nói không
nhằm chỗ, không nhằm lúc, không nhằm ư nghĩa, th́
như vậy sự nói đó quả thật là người
dốt nát chứ không phải là người trí, ở
đây chúng ta cần phải biết vấn đề
đó.
Ở đây có hai từ để
chúng ta gọi người có trí là
bậc hiền trí , là một người có trí tuệ
hiểu biết, mà lại là người biết phán
đoán cân nhắc mọi vấn đề như vậy mới
gọi là bậc hiền trí, c̣n khi mà ta gọi người
trí tuệ là chúng ta chỉ nói đến người có học
thức sâu rộng, chỉ vậy thôi, c̣n về sở hành
của người trí tuệ th́ chúng ta chưa có xét được.
Bậc hiền trí phải là
người có đặc tánh như thế nào, ở
đây Đức Phật dạy có 7 pháp để trở
thành bậc hiền trí . Bậc
hiền trí tức là người : tri nhân, tri quả, tri kỷ,
tri bỉ, tri thời, tri hội và tri độ.
- Pháp thứ nhất là tri nhân ,
tri nhân có nghĩa là biết được nhân sanh của
các pháp, biết được nguồn gốc phát sanh lên hậu
quả, th́ gọi như vậy là tri nhân, gặp bất cứ
việc ǵ người trí cũng phải hiểu rơ cái
nguyên nhân đó chứ không phải là sử sự một
cách hấp tấp, một cách hồ đồ. Thí dụ như khi gặp người
khác, mà người khác họ có thái độ chệch
thượng hoặc là xúc phạm đến ḿnh, th́ lúc bấy
giờ người trí sẽ cạn xét suy nghĩ xem ḿnh
đă làm điều ǵ khuyết điểm, điều ǵ
lỗi lầm hay không mà để cho người ta có thái
độ đó đối với ḿnh như vậy v.v...và
trong cuộc sống hàng ngày gặp chuyện ǵ xảy ra bậc
hiền trí cũng có trí tuệ biết nguyên nhân của sự
kiện đó như vậy gọi là tri nhân.
- Pháp thứ hai gọi tri quả,
tức là khi làm những ǵ, khi nói những ǵ, khi suy nghĩ
những ǵ, bậc hiền trí đều biết rơ , đều
suy xét ra hậu quả của hành động đó ra sao,
và nhờ biết rơ hậu quả của hành động
này như thế nào, cho nên bậc hiền trí bao giờ cũng
có thể tránh được những điều đáng
tiếc xảy ra. Khi chúng ta chuẩn bị nói điều
ǵ đó, thường thường th́ chúng ta không phải
là bậc hiền trí, chúng ta nghĩ sao chúng ta nói vậy,
chúng ta nghĩ sao th́ chúng ta làm vậy. Nhưng ở đây đối với
bậc hiền trí th́ không làm như thế, mặc dầu
suy nghĩ như vậy, nhưng trước khi làm hay
trước khi nói, bậc hiền trí suy xét xem lời nói
này có hợp thời hay không, có lợi ích hay không, người
nghe họ có ưa thích hay không và nói như vầy nó có lợi
hay nó có hại, phải suy xét hậu quả của nó, rồi
Ngài mới nói hoặc là hành động, như thế gọi
là tri quả.
Trong hai từ ngữ tri nhân và tri
quả, có một trường hợp khác chúng ta cần phải
hiểu đó là tri pháp và tri nghĩa, ở một trường
hợp khác Đức Phật Ngài giải thích điểm
này như sau. Một người
Tỳ kheo thông suốt kinh điển, hiểu biết thuộc
ḷng nhiều Phật ngôn, th́ như vậy gọi là vị
tri pháp, và mỗi một câu Phật ngôn có ư nghĩa như
thế nào, mỗi một điều pháp, mỗi một
chi pháp có bản thể pháp ra sao, th́ vị Tỳ kheo đó
cũng biết rơ, cũng thông suốt th́ như vậy gọi
là tri nghĩa. Như vậy vấn
đề chúng ta phải hiểu theo hai khía cạnh, nếu
như bậc hiền trí thông thường, chúng ta nên xem như đây là trường
hợp tri nhân tri quả, c̣n đối với bậc hiền
trí, những vị Tỳ kheo xuất gia tu theo pháp này th́ cái
vấn đề cần phải hiểu đó là tri pháp,tri
nghĩa, chúng ta cần phải hiểu biết như thế.
- Pháp thứ ba và pháp thứ
tư nữa đối với bậc hiền trí là tri kỷ, tri bỉ . Tri kỷ tức là biết một
ḿnh, c̣n tri bỉ tức là biết được người
khác. Biết được
ḿnh là biết ra sao, bậc hiền trí khi biết ḿnh, tức
là biết khả năng của ḿnh, tŕnh độ của
ḿnh, nhờ như vậy mà vị hiền trí có thể ứng
sử một cách khéo léo một cách khôn ngoan, những vấn
đề nào ḿnh biết không rơ, biết không tới, bậc
hiền trí sẽ không bao giờ huênh hoang khoe khoang, bởi
v́ nếu huênh hoang như vậy gặp những người
khác đặt những vấn đề để chất
vấn, th́ lúc bấy giờ sẽ trả lời không
được, cho nên bậc hiền trí sẽ không nông nỗi
như vậy, bậc hiền trí biết rơ tŕnh độ
của ḿnh rồi từ đó, chỗ nào khiếm khuyết,
kiến thức nào thiếu thốn th́ vị đó sễ
bổ túc, c̣n kiến thức nào đầy đủ rơ
ràng th́ bậc hiền trí sẽ triển khai vấn đề
này, do đó đối với bậc hiền trí nhờ có
pháp tri kỷ, tức là biết được ḿnh mà bậc
hiền trí sẽ ít gặp sự thất bại. Và tri bỉ tức là biết
người khác, người trí không bao giờ chỉ biết
chính ḿnh mà không biết người khác, bậc hiền trí
luôn luôn vừa biết ḿnh vừa biết người khác,
biết người khác tức là cũng biết tŕnh độ
của người khác ra sao, biết tánh t́nh của người
khác ra sao để mà ḿnh ứng xử một cách thích nghi,
một cách thích hợp không mích ḷng và nói một cách hợp
t́nh hợp lư th́ mới nhiếp phục được
người khác, th́ như vậy là tri kỷ, tri bỉ.
Trong vấn đề này chúng
ta cũng được biết, là ở đây người
xưa vẫn thường nói trong sách binh thơ của Tôn
Tẫn cũng thường đề cập đến gọi
là : " Tri kỷ, tri bỉ, bách chiến bách thắng
", một vị tướng ra
trận, nếu vị tướng đó biết tri kỷ
tri bỉ, tức là biết thế lực của ḿnh và biết
thế lực của quân địch th́ gọi là tri kỷ
tri bỉ. Nhờ biết rơ
như vậy cho nên vị tướng đó cầm quân sẽ
không bao giờ thất bại, hoặc nếu như gặp
trường hợp thua cũng không bị hao tổn binh
mă. Trong trường hợp
này chúng ta nói rộng thêm một chút,để chúng ta hiểu
được vấn đề tại sao người trí
lại là người tri kỷ, tri bỉ , nếu như
chúng ta tiếp xúc với người khác mà chúng ta không biết rơ tŕnh độ của ḿnh, không
biết rơ sở trường của ḿnh như vậy
chúng ta sẽ dễ dàng đi vào ngơ cụt, và chúng ta dễ
dàng bị người khác bắt bí. Nếu chúng ta nói chuyện với
người khác chúng ta không biết được người
khác tŕnh độ như thế nào , khả năng như
thế nào, sở thích như thế nào, trong trường hợp
đó chúng ta sẽ bị thất bại, nói chuyện không
nhằm đề tài, không nhằm vấn đề. Thí dụ chúng ta rành về y học,
chúng ta giỏi về thuốc men, nhưng khi chúng ta tiếp
xúc với một người nông dân tay lấm chân bùn, cày
sâu cuốc bẩm gieo trồng lúa gạo hay trồng rau cải
v.v...mà chúng ta đem vấn đề y học hoặc vấn
đề khoa học để nói th́ dầu cho chúng ta có
trí tuệ thông minh, chúng ta là người có học thức
rộng, chúng ta nói như vậy không thích ứng, không thích
hợp, câu chuyện trở nên buồn tẻ, đơn
điệu nhàm chán, bởi v́ người nghe họ không hiểu
ǵ th́ lúc đó họ sẽ chán chúng ta thôi. Cho nên ở đây thưa quí vị,
vấn đề hết sức quan trọng là đối
với người trí, tri kỷ tri bỉ là như vậy.
- Pháp thứ năm là tri thời,
gọi là hiền trí là người biết rơ thời
điểm nào là thích hợp, thời nào không thích hợp,
lúc nào nên ăn, lúc nào nên uống, lúc nào nên đứng, nên
đi, nên nằm, nên ngồi, lúc nào nên nói. Vị đó biết
rơ, chứ không phải lúc nào cũng nói được, dầu
cho chúng ta nói hay, mà không đúng thời điểm th́ cũng
không có lợi ích, không có tác dụng ǵ cả, lời nói hay
và muốn có tác dụng th́ lời nói đó phải là lời
nói hợp thời. Ngạn ngữ
Ấn có câu nói rằng : " nếu nói không hợp thời,
chẳng thà câm c̣n hơn. "
Bởi v́ khi chúng ta câm miệng, im lặng, lúc nào có việc
th́ chúng ta nói, chứ nói nhiều, nói huênh hoang mà chúng ta nói
không hợp thời không đúng lúc, th́ như vậy làm cho
người ta ghét thôi. Thí dụ
bây giờ chúng ta đi đến tham dự một tang lễ
của một người quen biết nào, lúc bấy giờ
giữa đám tang như vậy, tang quyến đang rầu buồn, chúng ta
đi đến với mục đích viếng tang, th́
chúng ta phải giữ nghiêm trang im lặng, chúng ta không nên
đến đó nói chuyện cười đùa giởn hớt,
không nên nói những câu chuyện trào phúng để chọc
cười cho thiên hạ, nói như vậy là không hợp
thời, chúng ta cũng không nên bàn bạc về những vấn
đề liên quan trong cuộc sống, thí dụ như bàn
bạc về chuyện làm ăn, kinh tế, chính trị thời
sự chẳng hạn ở giữa tang lễ như vậy,
bởi v́ làm như thế chúng ta sẽ là người nông
nỗi nói chuyện không đúng thời, và người khác
họ thấy như thế họ không cho rằng ḿnh trí
tuệ uyên thâm, mà họ nói ḿnh là con người lố bịch
bởi v́ đi đến giữ tang lễ mà lại nói
như thế đó là không hợp thời, cho nên họ
không đánh giá chúng ta là người trí, mà người ta
nói chúng ta là người lố bịch, cần phải biết
như vậy.
- Pháp thứ sáu là tri hội,
khi mà chúng ta đến giữa hội chúng, người trí
biết rơ hội chúng này là như thế nào, chúng ta phải
biết rơ mục đích của hội chúng đó, họ tụ
họp lại để làm cái ǵ, họ tụ họp lại
để họ nghe pháp, hay tụ họp lại để
bàn bạc về vấn đề kinh tế, hay họ trao
đổi với nhau về khoa học kỹ thuật v.v....Chúng ta phải biết
rơ mục đích của cuộc họp đó. Thí dụ như đối với
tôn giáo, chúng ta biết rơ giáo lư, nhưng nếu chúng ta đến
giữa hội chúng có các nhà khoa học, họ đang bàn luận
với nhau về các công cuộc thí nghiệm, lúc bấy giờ
chúng ta đem giáo lư tôn giáo này, tôn giáo khác chúng ta bàn luận
th́ đó là điều chúng ta không có tri hội. Chúng ta không biết rơ hội chúng
đó như thế nào, người ta có thích nghe hay không
thích nghe, và chúng ta nói điều đó người ta có chấp
nhận, người ta có phụ họa với ḿnh hay
không, chúng ta cần phải biết rơ cái đó. Và người nào biết rơ
như vậy, người đó được gọi là
tri hội và người tri hội tức là người
có trí tuệ hay là bậc hiền trí.
- Pháp thứ bảy là tri độ,
vấn đề này khá quan trọng. Tri nhân, tri quả, tri kỷ, tri bỉ,
tri thời, tri hội đă gọi là bậc hiền trí rồi,
nhưng thiếu một pháp cũng chưa phải hoàn toàn
xứng đáng gọi là bậc hiền trí, đó là tri
độ. Tri độ ở
đây có nghĩa là biết tiết độ, biết vừa
phải, người trí trong việc hành xử hàng ngày, bất
cứ cái ǵ cũng biết vừa chừng, việc ăn,
việc uống, việc ngủ nghỉ hay là việc chúng
ta giao tiếp, chúng ta phải biết vừa phải, cái ǵ
nó vừa phải là nó hay, ăn vừa phải th́ ngon,
nhưng ăn quá độ th́ không ngon. Khi chúng ta ăn, chúng ta biết tiết
độ vừa chừng, ăn vừa đủ để
cho no thôi, vừa đủ no để nuôi thân thôi, chứ
không nên thấy món ngon rồi ăn nhiều quá, ăn đến
nỗi tức bụng đến phát ách th́ trong trường
hợp này không đáng để gọi là người trí,
uống cũng vậy, trong việc uống phải biết
tiết độ, trong việc ngủ nghỉ cũng vậy,
bậc trí sẽ phân định thời gian ngủ nghĩ
như thế nào vừa phải, chớ không thể nằm
ngủ nướng kéo dài thời gian, suốt cả ngày chỉ
kiếm chỗ mà ngủ th́ như vậy không đáng
được gọi là bậc hiền trí. C̣n lúc giao tiếp với mọi
người cho dù ḿnh là thần
tượng của hội chúng, ḿnh sẽ được
hội chúng hoan nghênh khi ḿnh phát biểu, nhưng trong trường
hợp này đă gọi là người trí th́ phát biểu vừa
phải với thời gian và ư nghĩa của lời nói của
bài phát biểu thôi, bởi v́ chúng ta nói th́ hay, nhưng mà nói
nhiều quá th́ nó cũng đâm ra nhàm chán, và nhất là những
trường hợp chúng ta nói không hay, mà chúng ta nói dài th́
điều đó nó sẽ không tốt đẹp, người
ta nói rằng : " Nói dai, nói dài, nói dở, th́ người
này không phải là bậc hiền trí." do vậy ở đây thưa quí vị,
bậc hiền trí là người phải biết tiết
độ trong mọi trường hợp, cho việc
ăn, việc uống, việc sinh sống, việc cư
sử giao tiếp, cái ǵ cũng phải biết tiết
độ, v́ chính do sự tiết độ đó, biết
tiết độ như vậy cho nên người trí sẽ
không bị mắc vào những lỗi lầm, những khuyết
điểm mà có thể làm cho người khác chê trách
được.
Bởi vậy cho nên ở
đây chúng ta cần phải hiểu rằng người
trí là người có bảy pháp : tri nhân, tri quả, tri kỷ,
tri bỉ, tri thời, tri hội và tri độ là như thế,
mới đáng được gọi là bậc hiền
trí. Th́ khi chúng ta nghe xong bảy
pháp này rồi th́ chúng ta mới thấy rơ rằng không phải
là nói nhiều mới gọi là bậc hiền trí, người
mà biết dừng lại, người biết tiết
độ hay là biết đúng thời hoặc là biết
rơ ḿnh và biết rơ người khác, biết nhân, biết quả
th́ như thế mới đáng gọi là bậc hiền
trí th́ ở đây thưa quí vị, một vấn đề
mà chúng ta cần phải lưu ư thêm nữa, là trong bài học
này Đức Phật Ngài đă mô tả bậc hiền trí
với nét sống động, nét sống động
đó như thế nào.
Khi nảy chúng tôi vừa tŕnh
bày bảy điểm của bậc hiền trí,
nhưng khi chúng ta đọc
qua bài kệ th́ Đức Phật Ngài đă tóm gọn chỉ
trong ba đặc tánh thôi :
- Đặc tánh thứ nhất
là tự tại an ổn, nghĩa là tâm không bị chao động,
tâm không bị phiền toái, không bị âu lo những việc
không đáng âu lo, th́ người đó gọi là bậc an tịnh,
bậc tự tại. Một
điểm thứ nhất mà Đức Phật đă minh
hoạ về người trí.
-
Đặt tánh thứ hai nữa là Đức Phật
Ngài minh hoạ người trí là người không gây oan
trái, quả thật vậy. Gọi
là người hiền trí trong cư xử bằng hành
động hay là lời nói, trong tư tưởng cũng
vậy, luôn luôn lúc nào cũng đưa đến một sự
thiện cảm với người khác, làm cho người
khác có sự thiện cảm, không có sự tức giận,
không có sự oan trái, không có sự oán thù. Như chúng ta thấy
Lục Quần Tỳ Kheo nói nhiều quá và huênh hoang lúc nào cũng
cho rằng ḿnh là những người học cao hiểu rộng
hơn các vị Tỳ Kheo khác, và gây gỗ ở trai
đường trong chùa, làm cho các vị Tỳ Kheo khác cảm
thấy bực ḿnh, cảm thấy chán nản và ghét bỏ,
và trong trường hợp đó nhóm Lục Quần Tỳ
Kheo đâu có đáng gọi là bậc thiền trí, v́ bậc
hiền trí là người không làm cho ai sợ, nghĩa là
không làm cho người khác cảm thấy sợ hăi khi có mặt
ḿnh. Chúng ta cũng cần nên lưu ư rằng, quí vị
đừng có nghĩ rằng nói nhiều, nói luôn mồm,
luôn miệng đi đến hội chúng khiến người
ta ưa thích, không phải như vậy đâu, nếu qúi vị
nào đă từng đi đến hội chúng và quí vị
đă thường tiếp xúc với nhiều hạng
người th́ quí vị sẽ thấy. Có những hạng người vừa
thấy mặt họ đi đến th́ chúng ta hoan hỷ,
chúng ta sẵn ḷng chờ đợi họ thốt lên lời
để chúng ta nghe, v́ người đó là bậc hiền
trí, biết cách nói và nói đúng thời đúng lúc, nói ít, nói
vừa phải, nói một cách lợi lạc, có ư nghĩa cần
phải học hỏi. C̣n có
những người chúng ta vừa nh́n thấy họ, chúng
ta đă ngao ngán rồi, không phải người này không có
kiến thức, nhưng mà kiến thức của họ
nó như một đống gạch vụn, chất lên th́
nhiều, nhưng mà lựa ra để kê đồ, kê tủ,
kê bàn ghế, th́ lựa ra chẳng có bao nhiêu cả, bởi
v́ đó là đống sà bần, người ta gọi là kiến
thức sà bần là như vậy.
Gặp những người đó đi đến chỉ
làm quấy rày chúng ta mà thôi, chứ chúng ta đừng nghĩ
rằng người nói nhiều, cái ǵ cũng có thể nói
được, th́ chúng ta cho rằng họ là bậc hiền
trí, không phải là như vậy.
Bởi thế cho nên được
gọi là bậc hiền trí tức là người không gây sự
oan trái với người khác, không khiến cho người
khác có sự khó chịu ghét bỏ, đó mới đáng là bậc
hiền trí. Khi nào chúng ta có kiến
thức uyên thâm, chúng ta học cao hiểu rộng, có địa
vị cao trong xă hội, nhưng mà khi chúng ta đến một
hội chúng mà hội chúng cảm thấy bực ḿnh, họ
lơ là với ḿnh th́ ḿnh nên biết rằng bản thân
ḿnh chưa phải là bậc hiền trí, bởi v́ cách nói và
cách cư xử ḿnh như thế nào để cho người
ta chán ghét th́ chúng ta cần phải hiểu như thế.
Đây là điểm thứ hai Đức Phật minh định
về nét sống động của người trí.
- Đặt tánh thứ ba
Đức Phật Ngài minh họa cho một người hiền
trí đó là không có sự sợ hăi.
Bậc hiền trí là người không làm ai sợ và cũng
không biết sợ ai.
Bởi người hiền
trí dựa vào ba yếu tố dạn dĩ không sợ ai cả,
không hề sợ người khác, luôn luôn có tâm tự tại
khi đi đến giữa hội chúng.
- Yếu tố thứ nhất
là người hiền trí có trí tuệ hiểu biết
được vấn đề một cách rộng răi, cho
nên khi đi đến với hội chúng người trí sẽ
không cảm thấy khổ sở, không cảm thấy
băng khoăn lo ngại v́ trí thức của vị này có
thừa sức để khi mà người ta hỏi,
người ta cần ḿnh nói th́ người trí có thể
nói được, do đó cho nên người trí không sợ
ai.
-Yếu tố thứ hai khiến
cho người trí không biết sợ ai, đó là bậc hiền
trí không phạm lỗi lầm.
Bậc hiền trí như quí vị đă biết trong
bảy pháp là : tri nhân, tri quả, tri kỷ, tri bỉ , tri
thời, tri hội và tri độ.
Khi bậc hiền trí làm cái ǵ cũng suy xét nhân và quả
của hành động đó, cho nên bậc hiền trí sẽ
tránh đi những nguyên nhân đưa đến hậu quả
cay đắng, bởi vậy không làm những điều
lỗi lầm, những khuyết điểm, cho nên bậc
hiền trí khi đi đến trước hội chúng, bậc
hiền trí không hề có sự rụt rè lo sợ.
- Yếu tố thứ ba, bậc
hiền trí không hề sợ ai, là bởi v́ bậc hiền
trí không hề gây oan trái với người khác, không gây nợ
máu với người khác, và không làm cho người khác có
sự khó chịu, cho nên bậc hiền trí nghĩ rằng
luôn luôn làm cho người khác có thiện cảm hài ḷng, th́
do đó khi bậc thiện trí đi đến với hội
chúng bậc hiền trí không hề lo sợ, người ta
trả thù hay là người ta bắt bẻ, người
ta bắt bí. Ở đời
thưa quí vị, khi chúng ta tỏ ra chúng ta khôn ngoan, chúng ta
nói quá nhiều, lúc bấy giờ chúng ta sẽ có nhiều kẻ
thù, có nhiều người đối lập, th́ lúc bấy
giờ người ta t́m dịp để hạ bệ
ḿnh xuống, th́ trong trường hợp đó chúng ta
đi đến hội chúng, chúng ta mới lo sợ. Chứ đối với bậc
hiền trí v́ rằng không có oan trái với người khác
th́ làm ǵ có tâm lo sợ, cho nên ở đây thưa quí vị,
người trí sẽ đi đến một hội chúng,
đi đến một cách tự tin do nhờ ba đặc
điểm này.
Chúng ta thấy rơ Đức Phật Ngài đă minh
hoạ bậc hiền trí với ba nét sống động.
Một là tự tại, hai là không gây oan trái với người
khác, thứ ba tức là tự tin không sợ hăi. Nói một cách khác bậc hiền
trí hành sử một cách tự tại, không làm ai sợ, và
cũng không sợ ai, đó mới đáng là bậc hiền
trí. C̣n nói nhiều hay nói ít th́
điều này không phải là một chủng mực để
chúng ta dựa vào đó để chúng ta đánh giá người
trí. Người nói nhiều,
nhưng mà tri thức rỗng không th́ người đó
chưa đáng được gọi là bậc hiền
trí. Người nói ít, nhưng
mà người đó có một tư tưởng thâm sâu th́
người này không phải là kẻ ngu si. Nói ít hay nói nhiều đó là chỉ
bên ngoài thôi, c̣n ở bên trong tri thức của người
này có thể ứng dụng một cách chính xác cái tri thức
của ḿnh vào trong mọi hoàn cảnh có lợi cho ḿnh, có lợi
cho người khác được hay không th́ điều
đó mới là một chuẩn mực để chúng ta
đánh giá là người trí.
Cho nên khi chúng ta đọc qua
bài kệ này, với tinh thần bài kệ đó có
được một kinh nghiệm trong đời sống
tu tập hàng ngày của chúng ta, nếu chúng ta là bậc hiền
trí th́ chúng ta phải làm như thế nào để có một
nội tâm yên tĩnh tự tại không bị chao động,
làm như thế nào để chúng ta sử sự với
người khác mà chúng ta không gây oán thù, làm như thế nào
để tâm của chúng ta có được sự tự
tin, chúng ta không hề biết run sợ, lo sợ trước
ai cả, dầu cho người đó quyền uy chức
tước hay giầu sang, nhưng mà chúng ta là người
có lẽ phải, chúng ta không hề run sợ, đó là ư nghĩa
của bài kệ ngày hôm nay.
Đến đây là hết thời giảng cho bài kệ
này. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Minh Hạnh biên soạn