TT Trí Siêu giảng : Ḱnh thưa quí vị, hôm nay với câu kệ được Đức Thế Tôn thuyết với duyên sự đặc biệt như chúng ta đă nghe vị điều hợp đọc lên : Là trường hợp hai ông bà BàLaMôn v́ do nhân duyên có liên hệ quyến thuộc ở quá khứ nên t́nh thương của hai ông bà này vừa gặp mặt Đức Phật đă trội dậy ḷng thương mến, đă thừa nhận gọi Đức Phật là con của hai người. Trong dịp này Đức Phật v́ nhận thấy duyên lành của hai vợ chồng Bà La Môn hết sức đặc biệt họ sẽ thành tựu thánh quả và sẽ được giải thoát kiếp sống hiện tại, cho nên Đức Thế Tôn đă mặc nhiên nhận lời, chấp nhận t́nh cảm của hai ông bà, và Ngài đă thuyết pháp độ cho hai ông bà trước kia họ chứng quả A Na Hàm, hai ông bà vô cùng thành kính đối với Tam Bảo và cúng dường Đức Phật và Chư Tăng liên tục như vậy trong suốt ba tháng hạ.

 

         Đức Thế Tôn đă thuyết pháp để tế độ cho hai ông bà chứng A La Hán, và như chúng ta cũng được biết là quả vị ALaHán là một quả vị tối cao trong mục đích giải thoát của Đạo Phật.  Quả vị A La Hán nếu dưới h́nh thức xuất gia th́ sẽ kéo dài được mạng sống cho đến hết tuổi thọ này.  Những ai chứng quả A La Hán c̣n trong h́nh thức cư sĩ th́ họ chỉ lưu lại trong thế gian này đời sống chỉ có 7 ngày thôi, sau 7 ngày họ phải nhập Niết Bàn. Ông bà BàLaMôn là một trong trường hợp đó, sau khi chứng quả ALaHán hai ông bà đă viên tịch Niết Bàn, lúc bấy giờ trong lễ trà tỳ nhục thể của hai ông Bà La Môn, cái vị Tỳ Kheo cũng đến tham dự, có Đức Phật chứng minh và nhân đó Chư Tỳ kheo đă hỏi Đức Thế Tôn về cái sự việc tái sanh của hai ông bà.

 

         Trong dịp này Đức Phật đă nói rằng: " v́ đối với hai người cư sĩ này đă thành tựu mục đích đă đọan trừ các lậu hoặc phiền năo, gánh nặng đă đặc xuống, việc nên làm đă làm nên không c̣n tái sanh nơi đây, hai ông bà đă viên tịch và Đức Thế Tôn đă đọc lên bài kệ này.  Ở đây thưa quí vị, bài kệ đă được Đức Thế Tôn  tŕnh bày mô tả về người đă đạt tới cứu cánh bất tận, trong bài kệ này có một điểm mà chúng ta sẽ thấy rằng đối với Phật Giáo  thường hay đề cập đến cái thái độ bất hại, xem như đó là dấu hiệu của người trí, tinh thần bất hại đối với Phật Giáo là hiện tượng của các bậc hiền nhân, và tiêu biểu là chư vị Thánh A La Hán, v́ cái ngài có vô lượng từ tâm và bi tâm đối với chúng sanh, cái Ngài không có sự năo hại chúng sanh cho dù đó là một ư nghĩ cũng không có.

 

         Và ở đây thưa quí vị, trong bài kệ có một danh từ muni khi được chuyển ngữ thành chủ từ số nhiều thành munayo, sự biến cách của tiếng phạn là như vậy, th́ danh từ muni này có rất nhiều nghĩa, chữ muni cũng có nghĩa là một vị tu sĩ, mà chữ muni cũng có nghĩa là một bậc trí tuệ, như bậc Đạo Sư của chúng ta có danh hiệu gọi là  là Thích Ca Mâu Ni, chữ Muni là bậc trí tuệ, Ngài là bậc trí tuệ của ḍng Thích Ca nên được gọi là Thích Ca Muni sử dụng trong nghĩa đó.  Chữ Muni trong trường hợp này được gọi là bậc Thánh hiền để chỉ cho vị ALaHán, những vị đă giải thoát, ở đây chúng ta cần phải hiểu như vậy. Có một trường hợp nữa mà chúng ta cần phải chú ư là trong bài kệ có câu -  Nicca.m kaayena sa.mvutaa - thân pḥng hộ  thường xuyên , hay là thân thường được chế ngự.

 

       Ở đây thưa quí vị, theo trong chú giải đă giải thích rằng mặc dù trong bài kệ chỉ nói đến thân như chúng ta phải hiểu ở đây gồm cả thân khẩu và ư.  V́ cái phạm vi của mạch văn 4 câu, mỗi một câu 8 chữ - nicca.m kaayena sa.mvutaa -     Nhưng ở đây chúng ta cần phải hiểu đối với vị ALaHan th́ thân khẩu và ư của Ngài luôn luôn được pḥng hộ, luôn luôn được chế ngự, luôn luôn đưọc thu thúc chữ sa.mvutaa có nghĩ là thu thúc hay pḥng hộ, đối với người tu tập, với một chúng sanh phàm phu th́ sự thu thúc hay sự chế ngự đối với thân khẩu ư th́ sự chế ngự này do giới hạnh, do chánh niệm, do trí tuệ, và cần phải được thu thúc ba phương tiện đó , kẻ phàm phu trong lúc bị thất niệm, hay là trong lúc với tâm ly trí, hay là đối với kẻ phàm phu không an trú vào giới th́ lúc đó thân không được chế ngự, khẩu không được chế ngự, ư không được chế ngự.

 

       C̣n ở đây khi mà chúng ta nói đến một vị ALaHán th́ chúng ta cần phải hiểu rằng thân khẩu ư của Ngài được gọi là luôn luôn chế ngự, luôn luôn thu thúc, th́ chúng ta phải hiểu rằng đối với các vị ấy v́ phiền năo đă đọan tận, do vậy cho nên đối với thân khẩu và ư không hề có sự sơ hở để cho phiền năo sanh khởi, và phiền năo cũng không có dịp để sanh khởi đă bị thánh đạo thánh quả cắt tuyệt, dứt trừ đoạn diệt do vậy cho nên các căn, nhăn căn, nhĩ căn, thiệt căn, thân căn, và ư căn,  lục căn của các vị ALaHán hoàn toàn được pḥng hộ và thân khẩu ư của Ngài hoàn toàn được chế ngự, ḥan toàn được pḥng hộ được thu thúc, chúng ta cần phải hiểu như vậy .

 

        Cũng như khi chúng ta nói đến sự qui y của phàm phu th́ chúng ta phải nhớ rằng sự qui y đó phải dựa trên niềm tin, c̣n sự qui y của bậc thánh hữu học th́ sự qui y đó là dựa vào trí tuệ trực giác.  Thái độ của phàm phu là khác, thái độ của bậc thánh là khác, cái sở hành của phàm phu là khác, sở hành của bậc thánh là khác, bậc thánh được thanh tịnh là do nhờ thánh đạo quả, thánh trí đạo quả đă đoạn tuyệt phiền năo cho nên các Ngài được thanh tịnh, c̣n kẻ phàm phu của chúng ta mà được thanh tịnh th́ những lúc đó là do thực hành giới và thực hành chánh niệm v.v... th́ những vấn đề này chúng ta cần như vậy.  Tại sao ở đây chúng tôi cần phải tŕnh bày những ư nghĩa đó, là bởi v́ thưa quí vị với những từ ngữ được sử dụng, nếu như những từ ngữ được sử dụng trong bài kệ mà ở đây chúng ta đọc qua, chúng ta sẽ thấy có một cái ǵ đó nó tương đồng với những pháp môn mà kẻ phàm phu, một đệ tử phàm phu chúng ta vẫn c̣n đang tu tập, th́ chúng ta không nên dùng phương tiện nghĩa đó để mà chúng ta hiểu cho sở hành của một vị ALaHán, một bậc đă giải thoát.

 

          Ở đây thưa quí vị, đối với các bậc hiền trí như là các vị ALaHán là các vị bất hại, là những vị đă hoàn toàn được thúc liễm thân tâm, ư nghĩa này chúng ta cần phải hiểu như thế, và tiếp đến trong câu thứ ba của bài kệ Đức Phật Ngài dạy rằng - Te yanti accuta.m .thaana.m - đạt cảnh giới bất tử, bất tử có nghĩa là không chết, nhưng mà chữ bất tử ở đây là một danh từ để gọi cho Niết Bàn, để gọi cho cứu cánh của phạm hạnh, v́ sao Niết Bàn gọi là bất tử ?. Cái ǵ có sanh, th́ cái đó mới có diệt, cái ǵ không sanh tất nhiên là không bị diệt, hễ không sanh th́ không bị diệt, có sanh th́ mới có diệt.  Đối với pháp hữu vi v́ có sự sanh khởi do đó cho nên mới có sự hoại diệt, sự hoại diệt của danh sắc từng sát na, từng sát na, và đời sống của chúng sanh v́ rằng có sanh cho nên mới có già có bịnh có chết, có sanh mới có tử, đối với Niết Bàn v́ không có sanh khởi, không có hiện tượng bị tạo thành do đó cho nên không có hiện tượng bị biến diệt, và trong ư nghĩa đó chúng ta gọi là vô sanh bất diệt là Niết Bàn.

 

          Do vậy cho nên ở đây chúng ta gọi Niết Bàn là một trạng thái bất tử, chúng ta cần phải hiểu điều đó, và ở đây thưa quí vị, tại sao chúng ta phải hiểu như vậy ?. là bởi v́ đời sống tu tập của chúng ta không ngoài cái mục đích là để t́m đến cái trạng thái không c̣n sanh tử, v́ hễ c̣n sanh c̣n tử tức là c̣n cái sự khổ đau, khi dứt được t́nh trạng sanh tử th́ lúc đó mới không có sự khổ đau và đối với Niết Bàn có rất nhiều danh từ để chúng ta gọi, có rất nhiều danh từ để chúng ta mô tả trạng thái Niết Bàn, mặc dầu danh từ đó đă được sử dụng theo danh từ  tục đế, như danh từ tục đế mà chúng ta dùng để chỉ cho Niết Bàn cũng khả dĩ làm cho chúng ta có thể hiểu được, cũng khả dĩ làm cho chúng ta biết trạng thái của Niết Bàn, do đó cho nên ở đây thưa quí vị, chúng ta cần phải biết rằng Niết Bàn không phải chỉ là một danh từ để chỉ cho nơi nào đó mà một tôn giáo cần đạt tới, như là những tôn giáo khác th́ mục đích của họ đạt tới cảnh giới phạm thiên hay là cảnh giới thiên đàng v.v... Chúng ta không nên hiểu chữ Niết Bàn giống nghĩa như vậy.

 

        Nếu mà người Phật tử chúng ta không khéo có đôi lúc chúng ta nghĩ rằng tu trong Phật Pháp, trong giáo lư này th́ mục đích tức là Niết Bàn, không có dùng cái từ thiên đàng hay là cảnh giới ǵ khác mà chỉ là Niết Bàn, rồi họ mới phát nguyện cho sanh về cơi Niết Bàn hay là nhập vào cơi Niết Bàn v.v...th́ trong trường hợp đó chúng ta đi hơi quá sai đối với từ ngữ được gọi là Niết Bàn.  Hôm nay chúng ta học bài kệ này chúng ta có thêm được một từ nữa để chỉ cho Niết Bàn đó là từ bất tử, từ bất tử ở đây chúng ta cần phải hiểu rằng v́ không có sanh nên không có diệt đó là Niết Bàn, chớ không phải Niết Bàn là một trạng thái vĩnh hằng, không phải là trạng thái thường c̣n, như người ta nói " thường lạc ngă tịnh "  không phải là như vậy, cho nên ở đây chúng ta phải hiểu Niết Bàn như thế đó, và một điều nữa thưa quí vị, trong bài kệ có câu nói rằng : " yattha gantvaa na socare - đến đi không sầu " là nơi đến không có sầu muộn, là một vị A La Hán đă đạt đến cứu cánh giải thoát tức là đạt đến Niết Bàn, th́ đối với sự kiện viên tịch Niết Bàn là một điều chấm dứt mọi sầu ưu, chấm dứt mọi lo sợ, chấm dứt mọi đau khổ.

 

        Th́ ở đây chúng ta có bốn sự sầu ưu, tức là sanh là sầu ưu, bệnh là sầu ưu, già là sầu ưu, chết là sầu ưu, và Niết Bàn không sanh, không già, không bệnh không chết, cho nên Niết Bàn không có sự sầu ưu, và đối với vị ALaHán việc nên làm đă làm sau đời sống này không c̣n đời sống khác, do đó cho nên sự sầu ưu không có đối với vị này.  Khi các vị Tỳ kheo nghi vấn không biết rằng hai ông bà BàLaMôn đă mệnh chung cảnh giới tái sanh của họ là ǵ, để mô tả cái sự kiện này Đức Phật đă nói nên cái hành trạng của vị ALaHán, và Ngài đă nói nên rằng những người đă đạt đến cảnh giới bất tử th́ sự đi đến, đến và đi, hay là chỗ đến của các vị ấy không có sự sầu muộn, tức là không c̣n sanh, không c̣n già, không c̣n bệnh, không c̣n chết, đó là  ư nghĩa tổng quát mà chúng tôi tŕnh bày trong bài kệ.

 

       Thưa quí vị chúng ta đọc qua bài kệ này, chúng ta có ba vấn đề mà chúng ta có thể thu thập lănh hội để mà chúng ta thực hành trong đời sống hàng ngày chúng ta.  Mặc dù bài kệ được mô tả hành trạng của vị ALaHán, nhưng điều này không có nghĩa là khi chúng ta đọc qua bài kệ, chúng ta không thu thập được cái ǵ lợi ích cho việc tu tập của chúng ta, không phải như vậy.  Ở đây chúng ta biết cuộc sống này là cuộc sống phiền lụy, và chấm cuộc sống này có quá nhiều cái sự khổ đau, và mục đích tu tập của chúng ta là để chấm dứt đời sống phiền lụy, và chấm dứt cuộc sống khổ đau, và khi chúng ta chấm dứt được cuộc sống khổ lụy khổ đau như vậy, chỉ khi nào chúng ta đạt được cảnh giới bất tử, tức là đạt được cứu cánh Niết Bàn, lúc đó chúng ta mới hết phiền lụy, hết khổ đau, đó là mục đích của chúng ta mà chúng ta cần phải suy nghĩ như  vậy.

 

       Như cũng rất khó đối với một người chưa thật sự có niềm tin nơi Phật pháp, một chúng sanh chưa thật sự đă huân tập chủng tử giác ngộ th́ bây giờ bảo họ an lập trong lư tưởng giải thoát, hay là hướng tới giải thoát Niết Bàn th́ quả thật là một điều khó khăn, một điều không thể nào mà thành tựu được, nhưng mà đối với người Phật tử chúng ta th́ đă thuần thục, đă hiểu biết pháp, và nhất là chúng ta đă cảm nhận được hạnh phúc thế gian là một  ngă khác, hạnh phúc Niết Bàn là một ngă khác, bây giờ người Phật tử chúng ta trong mỗi trường hợp, mỗi hoàn cảnh trong đời sống hàng ngày mà chúng ta gặp phải  phiền lụy, những sự sầu muộn th́ lúc đó chúng ta lại có sự so sánh và chúng ta cảm nhận được giá như chúng ta giải thoát  được cái thân sanh tử này th́ như vậy sẽ không có bị phiền lụy, không có sầu muộn, ngay khi chúng ta khởi lên tư tưởng đó tức là chúng ta đă hướng đến mục tiêu tối thượng trong việc tu tập rồi đó.

 

       Thưa quí vị, khi mà chúng ta biết được hành trạng của một vị ALaHán, là vị đă đạt đến cảnh giới bất tử, nơi mà vị đó đến đi không có sự sầu muộn, chúng ta biết được hành trạng của vị này là những bậc bất hại, là những bậc hoàn toàn thúc liễm thân tâm, bây giờ chúng ta sẽ học hỏi theo cách đó, chúng ta cần phải hiểu rằng ở đây thái độ bất hại là thái độ của bậc hiền trí, tiêu biểu là vị A La Hán, nhưng mà kẻ phàm phu chúng ta th́ chúng ta có thể thực hành được những pháp này, chúng ta phải tập dần dần, và ở đây khi mà chúng ta tu tập về tâm bi, tức là chúng ta thường xuyên an trú ở trạng thái tâm không năo hại, không làm khổ ḿnh và không làm khổ người khác, th́ dần dần chúng ta sẽ đạt đến thái độ bất hại, đạt đến một cái hạnh bất hại.

 

       Ở đây thưa quí vị, thế nào là không hại ḿnh, thế nào là không hại người.  Khi mà chúng ta đi vào con đường trung đạo, không thái qúa, không bất cập, không lợi dưỡng, cũng không khổ hạnh th́ đó là chúng ta đă đi vào con đường gọi là bất hại đối với bản thân, c̣n đối với sự bất hại đối với chúng sanh có nghĩa là chúng ta không có sự thù hận, không có sự oan trái, không có sự nổi giận, để rồi t́m mưu này kế nọ mà sát phạt chúng sanh, như vậy đó có nghĩa là chúng ta đă có thái độ bất hại đối với chúng sanh.

 

        Ở đây thưa quí vị, có những người trong đời này tự làm khổ ḿnh, chuyên tâm làm khổ ḿnh, thái độ đó, hạng người đó không phải là tốt, có hạng người trong đời này không làm khổ ḿnh nhưng mà chuyên tâm làm khổ người khác, đó là thái độ cũng không tốt, th́ cả hai hạng người này nếu không làm hại cho ḿnh th́ cũng làm hại cho người khác, không làm khổ ḿnh th́ cũng làm khổ cho người khác.

 

        Hạng người thứ ba vừa tự làm khổ ḿnh, vừa tự làm khổ người khác có hạng người như vậy, tức là tự bản thân của họ sống một cách buông lung cẩu thả và sống theo đường lối cực đoan, sống một cách khe khắc, hành xác và tự họ chuốt lấy sự khổ đau, và đồng thời thân nghiệp, khẩu nghiệp, thân hành của họ cũng luôn luôn xúc phạm đến chúng sanh khác, làm cho chúng sanh khác phải chịu nhiều sự khổ đau v́ cái sự xuất hiện của họ, đối với hạng người này Đức Phật Ngài quở trách nhiều nhất, người đó xuất hiện ở đời cũng giống như một tai họa của Chư Thiên và chúng sanh, sự xuất hiện của họ là một thảm hoạ cho tất cả mọi người th́ như vậy hạng người đó là hạng người xấu nhất, hạ liệt nhất và đối với tinh thần của người Phật tử th́ chúng ta không nên làm như vậy.

 

        C̣n hạng người thứ tư là không làm khổ ḿnh và cũng không làm khổ người khác, đó mới thật sự là người đạt đến trạng thái bất hại, Đức Phật cũng như Chư Vị A La Hán, cũng như Chư Phật Độc Giác là những hạng người đó, đối với các Ngài không làm khổ ḿnh và cũng không làm khổ người khác th́ chúng ta theo gương đó để chúng ta tu tập trong đời sống hàng ngày của chúng ta, chúng ta không làm khổ cho ai cả, nhưng mà chính bản thân ḿnh th́ ḿnh cũng đừng làm khổ cho chính ḿnh, tội ǵ mà chúng ta hành hạ chính ḿnh, khi mà chúng ta hành hạ chính ḿnh để làm vừa ḷng người khác điều đó chúng ta cũng không hoá giải được cái ǵ cả , chúng ta không tiếp độ ǵ cả, chúng ta không thể làm cho chúng sanh khác xúc động mà quay trở về điều thiện đâu, do đó cho nên nếu chúng ta v́ tâm bi mà chúng ta nhắc nhở, chúng ta khuyến khích họ làm những điều lành điều thiện, chúng sanh khác không nghe th́ thôi, nhưng mà bản thân chúng ta th́ cứ an trú trong thiện pháp, hăy t́m sự an lạc tinh thần cho chính bản thân ḿnh bằng cách là chúng ta phải sáng xuốt lựa trọn cái con đường, và con đường đó là không thái quá, không bất cập, luôn luôn chúng ta chú ư như vậy.

 

        Và ở đây thưa quí vị, khi mà người Phật tử chúng ta sống theo cách của hạng người không tự làm khổ ḿnh, không làm khổ người khác đó là chúng ta đă đạt tới tinh thần bất hại, và ư nghĩa này chúng ta cần phải ghi nhớ để mà chúng ta tu tập.  Một ư nghĩa thứ hai nữa mà chúng tôi muốn tŕnh bày ở đây, đó là trong bài kệ này đă dạy cho chúng ta về thái độ, cái hành trạng của vị ALaHán, thân tâm của cái Ngài hoàn toàn thúc liễm, nghĩa là không thể có cơ hội để cho phiền năo nó sanh khởi, bởi v́ phiền năo đă được dập tắt vào tận gốc rễ.  Nhưng kẻ phàm phu của chúng ta th́ phiền năo chưa được dập, chưa được bứng gốc rễ, nó vẫn c̣n phát triển, nó vẫn c̣n sanh khởi, phiền năo đối với kẻ phàm phu chúng ta nó sanh khởi, có những trường hợp trong dạng ngủ ngầm, có trường hợp nó sanh khởi trong dạng bộc phát.

 

        Th́ ở đây khi mà chúng ta tu tập, chúng ta cần phải pḥng hộ, cần phải thúc liễm thân và tâm, bằng cách là chúng ta luôn luôn có sự kiểm soát, luôn luôn chúng ta có chánh niệm, khi mắt thấy sắc, khi tai nghe tiếng, khi mũi ngửi mùi, khi lưỡi nếm vị, khi thân xúc chạm và khi ư suy tư, lúc bấy giờ chúng ta cần phải kiểm soát, cần phải tự chủ và cần phải biết rơ là khi gặp cảnh sắc, cảnh thinh tâm khởi lên là loại tâm ǵ chúng ta cần phải biết rơ như vậy, chúng ta nh́n cảnh sắc, chúng ta không nắm tính chung, không nắm tính riêng, chúng ta không phân biệt cái này đẹp, cái này xấu, cái này không đáng ưa thích,  cái này là khả ái, khả ối, bất khả ư, chúng ta không cần phải chấp tướng chung tướng riêng như vậy.

 

         Khi nghe chỉ biết là nghe, khi ngửi chỉ biết là ngửi, khi nếm chỉ biết là nếm v.v... một hành giả tu tập thiền quán cần phải chú ư điểm đó và khi mà chúng ta tu tập thường xuyên như vậy, làm cho thuần thục như vậy, th́ sau đó chúng ta đă quen đi cái sự chế ngự đối với tham và ưu, chúng ta quen đi với sự thúc liễm với thân và tâm , chúng ta quen đi với sự thu thúc nhăn căn và nhĩ căn, tỉ căn, thiệt căn và thân căn, và chỉ có mức độ tu tập này đây là con đường trung đạo mà trong tương lai hoặc là ngay trong hiện tại, chúng ta có thể thành tựu được cứu cánh giải thoát, sự tu tập của chúng ta là như vậy thưa quí vị.

 

        Khi chúng ta đọc qua một câu Phật ngôn nào, trong những câu Phật ngôn đó chúng ta cần phải hiểu nghĩa lư một cách sâu sắc, và khi đă hiểu được ư nghĩa đó chúng ta cần phải có một cái yếu lư mà chúng ta tu tập trong đời sống hàng ngày chúng ta bây giờ giống như là những sinh viên, những người học tṛ c̣n đang trong thời gian học tập, những cái ǵ hay, những cái ǵ đẹp, những cái ǵ bổ ích th́ chúng ta cần phải được thu thập, chúng ta cần thu thập càng nhiều càng tốt, chúng ta đọc qua những bài kệ Pháp Cú, chúng ta đừng nghĩ rằng khi mà chúng ta đọc những bài kệ mà Đức Phật Ngài khuyên dạy tu tập th́ chúng ta thấy đó là cần tu tập, nhưng mà những bài kệ đại loại như thế này, hoặc những bài kệ về sau này chúng ta sẽ học đến, những bài kệ mà Đức Phật Ngài mô tạng thái độ của một bậc ALaHán, một bậc đă giải thoát, lúc bấy giờ chúng ta đừng nghĩ rằng chúng ta sẽ không thu thập được cái ǵ tinh hoa trong cái việc tu tập, nếu phân tích cho kỹ, th́ chúng ta sẽ thấy dụng ư Đức Thế Tôn thuyết lên bài kệ đó là để Ngài tŕnh bày pháp môn đó, chúng ta nên có niềm tin, có sự hoan hỷ với trí tuệ phân tách và tu tập th́ chắc chắn là chúng ta sẽ thành tựu sự an lạc, và hy vọng rằng với tất cả chúng ta đây, với tất cả sự nhiệt tâm chuyên cần, với sự tu tập như vậy, trong đời sống hàng ngày, không làm hại, không làm khổ ḿnh, không làm khổ người, không hại ḿnh, không hại người, với cái sự tu tập nhiệt tâm để thúc liễm thân và tâm như vậy, hy vọng trong tương lai chúng ta sẽ thành tựu được pháp bất tử, chúng ta sẽ chấm dứt sự phiền muộn trong cuộc sống này.

 

      Quả thật đối với đời sống có nhiều phiền lụy, chúng ta cần phải loại bỏ, cần phải tránh xa, cần phải viễn ly cái cuộc sống này, đó là một điều rất tốt, bây giờ chúng ta không thể nào chúng ta ngồi lại đề chúng ta vui, Đức Phật đă dạy " Vui cười thích thú lẽ nào, khi đời măi bị phủ bao lửa hồng, trong đêm tối có hay không, sao chưa t́m ánh sáng hồng thoát ly."  Chúng ta đang bị bao trùm bởi ngọn lửa sanh già bệnh chết tham sân si, chúng ta đang sống trong bóng tối vô minh, chúng ta không thể vui cười được, chúng ta không thể hoan hỷ được, mà chúng ta cần phải t́m ánh sáng trí tuệ đạt đến cứu cánh giải thoát và người Phật tử chúng ta mặc dù như thế, nhưng không có nghĩa là chúng ta bi quan, mà chúng ta luôn luôn phải nh́n cuộc đời bằng ánh mắt thực tiễn, chúng ta biết nhận định, cũng như trong trường hợp này cũng vậy, chúng ta cần phải hiểu được cuộc đời là phiền lụy như thế nào, là sầu muộn như thế nào, có thân đây phải chịu sự bệnh, sự già ,sự chết, đó là sự phiền lụy sầu muộn, mà muốn đạt được như vậy là chúng ta phải đạt được trạng thái bất tử th́ đích đến không sầu, chúng ta phải biết rơ như vậy cho nên ở đây chúng tôi xin được mạn phép tŕnh bày ư nghĩa của bài kệ số 225 như vậy,và bây giờ chúng tôi xin tạm kết thúc bài giảng hôm nay tại đây, kính chúc Chư Tôn Đức được mọi sự an lạc, kính chúc quí vị Phật tử được nhiều sự an vui tiến hoá.  Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

Minh Hạnh biên soạn