A Tỳ Đàm, Bài 17 Ngày 31 tháng 12 năm 2004


Minh Hạnh chuyển biên & Cô Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính


A Tỳ Đàm bài 17.5-

Sự Phối Hợp Giữa Tâm và Các Thuộc Tánh

A Tâm và thuộc tánh tâm

Tâm thức, như đă nói, không phải là một cá thể đơn thuần mà là một đơn vị tổng hợp. Một tâm thức sanh khởi lên chắc chắn phải có những thành phần phụ thuộc.

Những thành phần phụ thuộc này được gọi là thuộc tánh tâm (Cetasika). Tất cả tâm khi khởi lên đều chỉ có một nhiệm vụ là "biết cảnh", nhưng được phân chia làm nhiều loại v́ chúng có những đặc tính khác biệt nhau. Đặc tính khác biệt ấy là do Sở Hữu Tâm" gây nên, như cũng đồng biết cảnh mà sự biết cảnh nầy có đặc tánh ham muốn, sự biết cảnh kia có đặc tánh khó chịu,Như vậy, để nhận rơ và phân định từng trạng thái của các thứ tâm cũng như những điểm dị đồng của các loại tâm thức chúng ta cần phải biết rơ về những thuộc tánh phối hợp tương ưng đồng sanh với tâm.

17.5 Tâm Siêu Thế Tương Ưng

 

TT Thích Hoàng Pháp: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, kính bạch Chư Tăng, kính thưa quí Phật tử. Hôm nay chúng ta học qua phần tâm phối hợp cuối cùng đó là nói về Tâm Siêu Thế. Tâm Siêu Thế chúng ta biết có con số tâm sở phối hợp nhiều nhất đó là 36, vi` trong khi con số tâm sở phối hợp tâm cao nhất 38 là tối đa, không thể nhiều hơn nữa là 13 sở hữu tợ tha và 25 sở hữu tịnh hảo biến hành, nhưng đối với những tâm siêu thế, con số cao nhất là 36 chớ không là 38, bởi lẽ tâm siêu thế là lấy Niết Bàn làm đối tượng, do đó hai tâm sở bi và tùy hỉ lấy chúng sanh làm đối tượng. Đối tượng tức là cảnh.

Tâm bi lấy chúng sanh làm đối tượng, như hiện hữu bây giờ chúng ta nhi`n thấy trận đại hồng thủy vừa xảy ra trong ngày 26 tháng 12, 2004, con số tử vong đă lên tới 125,000 người, thi` như vậy nhi`n cảnh chúng sanh chết một cách thê thảm như vậy, sát sanh như vậy nên khởi lo`ng bi mẫn, gửi tiền bạc hay phương tiện nào đó để cứu với chúng sanh, dầu cho những người đó họ là Phật tử hay đạo Hồi giáo hay Thiên chúa giáo chẳng hạn, thi` chúng ta thấy cái chết thê thảm này cũng là điều xót xa, đó là tâm bi. Tâm bi là lấy chúng sanh làm đối tượng.

Co`n tâm hỉ cũng lấy chúng sanh làm đối tượng, nhưng lấy chúng sanh được hạnh phúc để làm đối tượng, như chúng ta nhi`n lại các nước an toàn như Cam Bô Chia, Việt Nam, Trung quốc, Nhật bổn v.v... những nước cũng ở trong vùng Á Châu, nhưng những nước này dầu Phật tử hay không phải Phật tử chẳng hạn, nhưng họ được bi`nh yên không tai nạn gi` cả và lại được đang sống cảnh an vui hạnh phúc, như vậy chúng ta cũng mừng giùm, mừng theo những chúng sanh này trong cuộc đại hồng thủy  mà được an lành, chẳng những không có tai nạn mà co`n tiếp tục sống trong cảnh an vui hạnh phúc, thi` cũng là lấy chúng sanh làm đối tượng, nhưng đối với tâm siêu thế thi` không phải như vậy, trong tâm siêu thế thi` từ Tu Đà Hườn tới A La Hán, gọi là vượt ngoài thế gian, dầu dục giới, sắc giới hay vô sắc giới vẫn co`n trong hạn cuộc của thế gian.

Niết Bàn vượt ngoài cả không gian và thời gian, do đó khi tâm siêu thế lấy Niết Bàn làm cảnh thi` không có bi và tùy hỉ, như vậy thi` chúng ta được biết là con số cao nhất của tâm siêu thế là 36. Tâm siêu thế thi` cũng là tâm thiền nên rồi cứ như vậy mà chúng ta căn cứ theo 5 bực thiền, đây là nói theo A Ty` Đàm, bớt đi những con số thiền nào không có tâm sở cùng phối hợp được thi` trừ ra. Như vậy thi` ở trạng thái sơ thiền, dù sơ thiền của vị Tu Đà Hườn, sơ thiền của vị Tư Đà Hàm, sơ thiền của vị A Na Hàm hay sơ thiền của vị A La Hán, kể cả đạo và quả vẫn con số là 36 tâm sở, chỉ trừ bi và hỉ mà thôi.

Nhưng bước qua từng thiền thứ hai gọi là nhị thiền, nói qua A Ty` Đàm thi` lại trừ ra tâm sở tầm. Tâm sở tầm là trạng thái quan tâm lên đối tượng, do đó bậc nhị thiền này đă tiến lên một bậc thiền cao hơn, không cần tầm nữa, nên trừ ra tâm sở tầm như vậy là co`n 35 tâm sở đối với bậc chứng đắc đạo. Dù Tu Đà Hườn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm cho đến A La Hán, đạo và quả nói chung là 8 tâm, 4 đạo, 4 quả, mà vị đă chứng thiền rồi thi` chứng nhị thiền trong trường hợp này thi` cũng chỉ có 35 tâm sở phối hợp mà thôi, không có tầm.

Và ở đây cũng để cho chúng ta để y' điều này, tâm sở tầm trong bát chánh đạo là chánh tư duy, do đó nếu có người hỏi bát chánh đạo luôn luôn có đủ tám chi hay không?, thi` nếu là thông thường thi` trả lời vâng đúng vậy, người đắc đạo quả thi` lúc bấy giờ bát chánh đạo phải có đủ tám chi, nhưng nếu người có học A Ty` Đàm thi` giải thích rằng không hẳn như vậy, nếu trường hợp người đắc sơ nhị, tam tứ đạo, mà từ nhị thiền trở lên thi` không có tầm thi` sao có chánh tư duy, do đó với trường hợp này chỉ gồm có 7 chi đạo mà thôi, chứ không có tới 8 chi đạo, tức là không có chánh tư duy, bởi vi` trừ tầm.

Quí vị nhớ căn bản chánh tư duy, tức là tâm sở tầm, nếu tâm sở tầm không có thi` chánh tư duy cũng không có, đó là chi pháp căn bản trong A Ty` Đàm giải thích phân tích là như vậy.  Và trường hợp những vị chứng như đắc nhị thiền theo cái người chủ yếu, mà bây giờ đă đắc được đạo quả thi` như vậy là người này đắc nhị thiền, nhưng sơ đạo nhị thiền hay là nhị đạo nhị thiền, hay tam đạo nhị thiền, hay tứ đạo nhị thiền thi` cũng chỉ có 35 tâm sở cùng phối hợp bởi không có tâm sở tầm.

Rồi cũng vậy, đối với những bậc thiền thứ ba tức tam thiền theo A Ty` Đàm thi` đă trừ tầm và tứ, như vậy chỉ co`n 34 tâm sở,  36 và trừ tầm và tứ thi` co`n 34 tâm sở.  Vi` tứ là trạng thái quan sát hay do` đi xét lại trạng thái hay cảnh mà mi`nh đă hướng tâm đến. Đối với trường hợp đắc nhị thiền theo A Ty` Đàm thi` tương đương với nhị thiền của kinh tạng giải thích, thi` không co`n tầm không co`n tứ, chi thiền chỉ co`n hỉ lạc định mà thôi do đó nên co`n 34 là như vậy.

Lên bực tứ thiền của A Ty` Đàm tương đương với tam thiền kinh tạng tức là trừ hỉ, bởi vi` lên bực thiền cao thi` bỏ đi phần thô chỉ co`n lại phần tế, bởi vi` tầm là trạng thái thô hơn tứ.  Tầm và tứ vẫn co`n trạng thái thô nên bỏ luôn. 

Rồi tới hỉ so với lạc thi` hỉ vẫn co`n thô nên cũng trừ luôn, nên bậc tứ thiền A Ty` Đàm tức là tam thiền trong bộ kinh tạng thi` chỉ co`n lạc và định. Lạc. 

Và định ở đây thi` vẫn xem như là trừ hỉ ra rồi, thi` 36 trừ 3 là tầm, tứ, hỉ, co`n lại con số 33 tâm sở cùng phối hợp.

Và ở đây nếu nói ngũ thiền ở A Ty` Đàm thi` cũng tương đương với tứ thiền của kinh tạng, thi` vẫn là con số 33, nhưng mà qúi vị thấy là bỏ hỉ, nếu nói chi thiền chỉ co`n xả và định.

Ở đây quí vị nên để y' rằng xả và lạc tâm sở thọ hay sở hữu thọ. Thọ là một trong 7 tâm sở biến hành , xúc, thọ, tư, tưởng, măn, căn, ư, thi` thọ, dầu thọ khổ, thọ lạc, thọ hỉ ,thọ ưu đi nữa cũng vẫn là thọ, hễ có thọ này thi` không có thọ kia, do đó khi vị chứng thiền tứ thiền thi` vị này chứng xả niệm thân tịnh, với một trạng thái tâm thanh tịnh, vị này xả khỗ, xả lạc, diệt hỉ, diệt ưu từ trước, tức là trước khi nhập thiền dầu tâm vị đó đang ở trong trạng thái dục giới, có thể buồn phiền đau đớn gi` đó, nhưng một khi vị này đă dẫn nhập chứng và trú vào trạng thái tứ thiền thi` mọi khổ lạc ưu hỉ đều diệt trừ. Diệt trừ đây tức là  không phải diệt trừ hẳn như trong trường hợp đắc đạo, mà bậc tứ thiền là diệt trừ trong khi nhập thiền đó thôi, thi` vào lúc chứng và trú vào tứ thiền như vậy rồi xả khổ, xả lạc, diệt hỉ, diệt ưu.

Trường hợp này nếu muốn hiểu cái năng lực tứ thiền, phải diệt khổ diệt lạc như thế nào thi` chúng ta nhớ đến câu chuyện người què búng sạn, búng xuyên qua lỗ tai vị độc giác, lủng màn nhĩ từ bên đây xuyên qua bên kia, dĩ nhiên là không thể sống được rồi, sự đau đớn khốc liệt, quí vị thử nghĩ như một viên đạn bắn trúng vào trong da thịt trong đầu chúng ta thi` đau đớn như thế nào, thi` vị độc giác cũng là cái thân xác Ngài bằng xương bằng thịt, tuy nhiên cũng vẫn có sự đau đớn vậy, và lúc bấy giờ lập tức Ngài an trú vào trạng thái tứ thiền, để Ngài tiếp tục duy tri` mạng sống, khi về đến tịnh thất thi` Ngài viên tịch Niết bàn ngay hôm đó. Đây là trường hợp cho thấy trạng thái tứ thiền là xả khổ, xả lạc, diệt hỉ, diệt ưu.

Đă cảm thọ trước khi nhập thiền trước đó, tức là trước khi nhập thiền,  nên khổ, lạc, ưu, hỉ không co`n. Nhưng trạng thái xả và định ở đây được nói là hai chi của ngũ thiền, nói theo A Ty` Đàm hay tứ thiền theo kinh tạng thi` xả và định, tuy là hai chi thiền như vậy nhưng xả vẫn là thọ, hễ có thọ bỏ thọ lạc thi` co`n thọ xả, như chúng ta đang vui, nhưng sau đó chúng ta trở lại bi`nh thường, ngay trong lúc bi`nh thường không vui, không khổ, không lạc, không buồn thi` đó gọi là phi khổ phi lạc thọ hay thọ xả cũng được, thi` ngay lúc đó không có thọ lạc nhưng vẫn có thọ, trong trường hợp này người ta khó nhận định được trạng thái xả.

Trong kinh chú giải có giải thích rằng, giống như một con nai nó chạy trên đường đi, nó chạy trên một tảng đá, thi` người ta có thể ti`m thấu dấu chân con nai bên đây và dấu chân con nai bên kia rơ rệt, nhưng trên tảng đá thi` người ta không thấy dấu chân con nai rơ rệt. Thi` cũng giống như vậy, thọ khổ, thọ lạc hay thọ hỉ, thọ ưu thi` chúng ta nhận thức rơ ràng, nhưng trạng thái thọ xả lại không nhận ra được, lại nghĩ rằng lúc đó không có cảm thọ. Nhưng vẫn có cảm thọ, mà đó là một loại thọ xả không khổ không lạc, phi khổ phi lạc thi` đó là thọ xả, nên hễ bỏ lạc rồi vẫn co`n thọ, mà gọi là thọ xả, nên vẫn giữ con số 33 tức là không thể trừ ra tâm xả thọ được nên vẫn là 33.

Đó là những con số mà chúng ta được biết, được kể đến trong những phần tâm siêu thế tương ưng hay tâm phối hợp, tức là một tâm có bao nhiêu tâm sở cùng tương ưng với tâm siêu thế, thi` con số 33 của tứ thiền trong A Ty` Đàm, thi` ngũ thiền cũng vẫn  con số 33, tức là không thể trừ hơn nữa,chỉ đổi khác là thay vi` thọ lạc, bây giờ là thọ xả nên con số vẫn giữ là 33, như vậy 36 trừ ra 3 tâm sở là tầm tứ hỉ mà thôi, co`n thọ thi` vẫn giữ nguyên nhưng đổi thọ lạc và thọ xả nên là con số tứ thiền, ngũ thiền, nên con số mà tâm sở phối hợp cũng như nhau là như vậy.

Để vấn đề giải thích về tâm phối hợp hay tâm siêu thế tương ưng với một số các tâm sở như vậy, thi` xem như bài giải thích này đến đây vừa đủ, bởi vi` đây chỉ liệt kê qua một số tâm sở phối hợp, tâm hợp đồng, đó là sau khi chúng ta học về tâm và tâm sở. Bài tâm siêu thế tương ưng hôm nay y' nghĩa là như vậy, phần co`n lại chúng ta sẽ có thể có một số vấn đề ti`m hiểu thêm và cũng có thể bàn luận thêm. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.