A Tỳ Đàm, Bài 17 Ngày 24 tháng 12 năm 2004


Minh Hạnh chuyển biên & Cô Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính

A Tỳ Đàm bài 17.3-

Sự Phối Hợp Giữa Tâm và Các Thuộc Tánh

A Tâm và thuộc tánh tâm

Tâm thức, như đă nói, không phải là một cá thể đơn thuần mà là một đơn vị tổng hợp. Một tâm thức sanh khởi lên chắc chắn phải có những thành phần phụ thuộc.

Những thành phần phụ thuộc này được gọi là thuộc tánh tâm (Cetasika). Tất cả tâm khi khởi lên đều chỉ có một nhiệm vụ là "biết cảnh", nhưng được phân chia làm nhiều loại v́ chúng có những đặc tính khác biệt nhau. Đặc tính khác biệt ấy là do Sở Hữu Tâm" gây nên, như cũng đồng biết cảnh mà sự biết cảnh nầy có đặc tánh ham muốn, sự biết cảnh kia có đặc tánh khó chịu,Như vậy, để nhận rơ và phân định từng trạng thái của các thứ tâm cũng như những điểm dị đồng của các loại tâm thức chúng ta cần phải biết rơ về những thuộc tánh phối hợp tương ưng đồng sanh với tâm.

17.3 Tâm Dục Giới Tịnh Hảo Tương Ưng

 

TT Thích Hoàng Pháp: Hôm nay vẫn tiếp tục học về tâm hợp đồng, gọi là tâm hợp đồng hay tâm tương ưng, vi` chúng ta đă học qua hai chương, chương một và chương hai, đă nói đến phần tâm và tâm sở. Sau khi định nghĩa về tâm, có 121 thứ tâm, mỗi một thứ tâm có một số tâm sở cùng sanh khởi, sau đó chúng ta học về sở hữu tâm hay tâm sở Cetasika  là phần phụ thuộc của tâm được tính tất cả theo A Ty` Đàm.    52 tâm sở, và sau khi hiểu được y' nghĩa của tâm và tâm sở rồi, những phần như  tổng hợp để ti`m xem giữa  tâm và tâm sở, tức là có sự phối hợp như thế nào.

 Như những lần trước tôi có cho thí dụ về phần tâm sở phối hợp và tâm hợp đồng,  tâm sở phối hợp là để kiểm  những tâm sở nào có mặt, được trong bao nhiêu thứ tâm, giống như chúng ta học tánh dược để xem vị thuốc đó dùng được bao nhiêu thang thuốc.  Như học về thang thuốc chúng ta biết có như là 100 thang thuốc chẳng hạn, trong 100 thang thuốc đó nó tùy theo bịnh mà có thể thang thuốc này có vị này mà không có vị kia, và thang thuốc khác thi` có vị kia không có vị nọ, bởi vi` có những dược tính nó có sự khác biệt với nhau, do đó nên cần hiểu coi mỗi một loại thuốc như vậy thi` nó có bao nhiêu trong một thang.

Thí dụ như người ta ti`m một loại như phù tử ly' chung hay hương phụ, hay củ cú,  coi nó có bao nhiêu trong một thang, để biết được tại sao nó dùng được trong những thang đó, bởi vi` như hương phụ củ cú thi` ấm nóng, do đó những thang thuốc nào có tánh cách trợ cho nóng, ấm thi` nên có  vị đó. Rồi cũng vậy, người ta kiểm lại những toa thuốc, thí dụ như là hoài sơn, Hoài sơn thi` đặc tánh mát, thử coi nó có bao nhiêu lồng thang mà có những vị hoài sơn này, thi` sau đó mới thấy những vị hoài sơn sở dĩ là có được vi` nó mát trong những thang đó với tánh cách giúp cho tiêu, mát, hạ nhiệt, thi` như vậy vị hoài sơn có đôi lúc phải dùng ở thang này có khi dùng thang khác vi` đặc tánh nó là mát.

 Nhờ như vậy chúng ta càng hiểu thêm, chẳng những hiểu về cách sử dụng thuốc mà co`n hiểu được tánh dược, đó là nói về phần sở hữu. Co`n nói qua vấn đề tâm hợp đồng, thi` nó cũng có tánh cách tương tựa như vậy, nhưng ở đây tâm hợp đồng để chỉ xem như một lồng thang, có được bao nhiêu vị thuốc thường như  tứ quân, tứ vật hay  thập toàn đại bổ, bát vị lục vị v.v... mỗi thang thuốc đó để trị bịnh gi` và tại sao lại có chứng bịnh đó mà cần phải có những thang thuốc này, thi` nhờ hiểu biết được trong thang thuốc đó trị bịnh họ chẳng hạn nên phải có những vị này để bổ phổi, vị kia để cho ấm ty` v.v...

Thi` từ đó rút lấy kinh nghiệm thêm nữa cho vấn đề đi học, cũng như  trị bịnh khi lâm sang, biết rơ cái thang danh tánh dược có thể kiến chứng lập phương, kiến cơ như tác, sài đúng chỗ như thế nào thi` đối với những người học A Ty` Đàm  có vấn đề quan trọng cho sự mà tu tập về vipassana, nhất là kể cả hành thiền samatha, hay thiền chỉ, bởi vi` biết được trạng thái tâm và biết rơ được những phần nào phụ thuộc tâm, mỗi loại tâm có bao nhiêu sở hữu tâm.

Thật ra, tâm dù cho chia bao nhiêu thứ, thi` theo A Ty` Đàm vẫn có một y' nghĩa duy nhất là biết cảnh, hễ biết cảnh gọi là tâm và cái gi` tâm biết thi` cái đó gọi là cảnh, kể cả Niết Bàn cũng co`n tâm siêu thế biết, nên Niết bàn gọi là cảnh. Thi` tất cả những gi` là đối tượng của tâm và thức hay là cảnh của tâm thức thi` cái đó nói chung là cảnh, co`n hễ biết được cái gi` biết được cảnh đó thi` cái đó gọi là tâm, nhưng muốn biết tâm thiện hay tâm bất thiện thi` phải ti`m ở những cái đặc tánh của từng loại tâm sở đó.

Điều này Ngài Xá Lợi Phất Ngài nói rất rơ là tâm người khác thi` khó biết được, nhưng tâm mi`nh thi` dễ biết, dễ biết tức là hồi quang phản chiếu, nhận thức được tâm đang ở trạng thái nào, tâm vừa sanh như thế nào. Nhưng nói như vầy không phải là mỗi người đều biết được tâm mi`nh, không phải khó khăn gi` mà không biết được, nhưng những người không y' thức được, không có tác y' để tu tập quán tâm, không để y' đến thi` dầu có đi nữa, nhưng người này họ không biết cách nào để nhận xét được tâm thiện hay tâm bất thiện. Tâm nào cần tu tập, tâm nào không nên tu tập, tâm nào nên thân cận và tâm nào không nên thân cận. 

Điểm đặc biệt của người có học Abhidham.và trong khi thực hành môn thiền quán vipassana rất có lợi là nhận thức được tâm  của mi`nh, thật ti`nh mà nói thi` điều này tôi áp dụng rất dễ dàng, ở đây không phải là khoe khoang mà nói như để có sự bảo đảm, hay  bảo chứng cho qúi vị thật sự như vậy, nhưng biết được tâm mi`nh là một việc khác, co`n đối trị hay  thu thúc được tâm mi`nh là một việc khác.

Thí dụ như bây giờ tôi ngồi trước bàn ăn, có những món ăn vừa khẩu vị, cảm thấy thèm thuồng muốn ăn, thi` như vậy rơ ràng lúc bấy giờ tôi biết đó là tâm tham, và tâm tham này nó đang nhi`n vật thực mà nó thích có cảnh sắc, nhưng nó lien tưởng đến cảnh vị và những món ăn này đă thích hợp với khẩu vị của mi`nh.  Rồi  những thói quen như vậy, hễ thích thi` ăn, ăn co`n muốn ăn nhiều nữa.

 Đó là biết mi`nh đang có tâm tham rơ ràng, dầu đây là tham ăn, không  nó có tác hại người hay là gi` cả, nhưng  đối với đạo Phật, Đức Phật, Ngài dậy các vị xuất gia cần phải quán tưởng để hạn chế tâm tham.  Nói như vậy không phải  Đức Phật không cho ăn, vẫn được thọ dụng ăn, nhưng ăn với chánh niệm tỉnh giác, ăn với tâm không tham, tức là vật thực như món thuốc đói.   Cũng giống như khi chúng ta vô phân tưới nước cho một cây nào đó, thi` cũng là để cho nó được sống co`n, nó được tăng trưởng lớn mạnh thêm để đơm bông kết trái.  Thi` đối với bản thân này cũng vậy , nếu là vị tu hành chơn chánh thi` khi thọ thực thi` giống như vô phân tưới nước cho cây, mục đích để cho thân xác này được khoẻ mạnh để tu hành chứng đắc được thiền định đạo quả v.v… chứ không phải chỉ là vi` một ly’ do nào khác, như để tăng cường sắc đẹp, tăng trưởng về sức mạnh, hay ăn để cho nó khỏe mạnh vui chơi hưởng dục, thi` không phải là cái ly’ tưởng của người Sa Môn Thích Tử, nên Đức Phật dạy quán tưởng là như vậy.

Sở dĩ nói như vậy để cho biết rằng trong khi chúng ta có thể quan sát được tâm mi`nh trong khi ăn, uống v.v… cũng như tất cả mọi lúc, bất cứ lúc nào trong ngày hay đêm, con mắt chúng ta nhi`n đến đâu, thi` lúc bấy giờ kiểm soát lại tâm mi`nh thi` chúng ta cũng có thể kiểm soát được, nếu nhi`n  một đối tượng nào, một cảnh nào mà thấy tâm ưa thích thi` biết ngay lúc đó là tâm tham đối với cảnh sắc, nhi`n một bức tranh thấy thích cũng là tâm tham đắm với cảnh sắc, mặc dầu cảnh sắc này nó làm tâm tham khác hơn cảnh sắc khác. Nhi`n qua ho`n non bộ hay một cây kiểng thi` vẫn có phần ưa thích về cảnh, cũng là cảnh sắc, nhưng cảnh sắc này lại là một đối tượng khác.  Rồi qua một đối tượng khác nam hay nữ mà có dạng nhi`n ưa thích, thi` nó ưa thích vi` một đối tượng, cũng là cảnh sắc.

Vi` có TT Giác Đẳng trong rơom, tôi xin thỉnh TT Giác Đẳng giảng tiếp về tâm Dục Giới Tịnh Hảo Tương Ưng.