A Tỳ Đàm, Bài
17 Ngày
04 & 10& 17 tháng 12 năm 2004
Minh Hạnh chuyển
biên & Cô Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính
A Tỳ Đàm bài 17.1-
Sự Phối Hợp Giữa Tâm và Các Thuộc
Tánh
A Tâm và thuộc tánh tâm
Tâm thức, như
đă nói, không phải là một cá thể đơn thuần
mà là một đơn vị tổng hợp. Một tâm thức
sanh khởi lên chắc chắn phải có những thành phần
phụ thuộc.
Những thành phần phụ
thuộc này được gọi là thuộc tánh tâm
(Cetasika). Tất cả tâm khi khởi lên đều chỉ
có một nhiệm vụ là "biết cảnh",
nhưng được phân chia làm nhiều loại v́ chúng
có những đặc tính khác biệt nhau. Đặc tính
khác biệt ấy là do Sở Hữu Tâm" gây nên, như cũng
đồng biết cảnh mà sự biết cảnh nầy
có đặc tánh ham muốn, sự biết cảnh kia có
đặc tánh khó chịu,Như vậy, để nhận
rơ và phân định từng trạng thái của các thứ
tâm cũng như những điểm dị đồng của
các loại tâm thức chúng ta cần phải biết rơ về
những thuộc tánh phối hợp tương ưng
đồng sanh với tâm.
17.1 Tâm Bất Thiện Tương Ưng
TT
Giác Đẳng: Kính bạch TT Trí Siêu, trên phương diện
kỹ thuật thi` rất dễ dàng để những vị
học A Ty` Đàm nói chuyện với nhau, bởi vi` nếu
chúng ta nói ngă mạn tức là tà kiến, nghĩa là chấp
ngă thi` vị Tư Đà Hàm, A Na Hàm vẫn co`n ngă mạn,
thi` vị đó co`n tà kiến, tất nhiên chúng ta không thể
nhận như vậy. Thi` cách giải thích đó mang tánh
cách rất chuyên môn bởi vi` đă có một số định
ly' chúng ta đồng chấp nhận. Nhưng nếu với
một người Phật tử họ chưa bao giờ
quen thuộc với điều này, qúi vị đó nghĩ
rằng chữ mạn phải định nghĩa như
thế nào để thấy rằng mạn với tà kiến
nó vốn không thể sanh khởi trong cùng một tâm một
lúc, trong một sát na được.
Bạch
TT Trí Siêu, với những trạng thái đó chúng ta không nói
về từ ngữ, mà nói về trạng thái. Thi` tại sao trạng thái mạn
nó lại không đi với trạng thái tà kiến
được, mà tà kiến nó lại không đi với trạng
thái mạn được. Có thể TT Trí Siêu hoan hỷ nói
rơ thêm về điểm này. Chúng ta biết về
phương diện ly' giải, ở chung quanh việc
đoạn tận các kiết sử v.v... thi` rất dễ
hiểu. Nhưng trên phương diện trạng thái thôi,
tại sao trạng thái mạn và tà kiến lại không
đi chung với nhau, TT có thể trở lại điều
này thêm một chút nữa để đại chúng có thể
nắm vững.
TT
Trí Siêu: Nam Mô Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật. Kính bạch qúi Ngài, kính thưa qúi vị.
Được hỏi thêm về vấn đề này thi`
chúng tôi cũng xin có một vài lời giải thích. Trạng
thái của tà kiến, chúng ta gọi là sự cố chấp
phi ly', cố chấp không đúng sự thực gọi là
Ayonisomanasikàradit.t.hi, chấp một cách sai lầm, không thật mà cho là thật, không
đúng mà cho là đúng.
Chẳng
hạn như các pháp hữu vi danh và sắc nó không có một
thực thể đơn thuần, tất cả dầu
cho sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành
uẩn, và thức uẩn, nó được hi`nh thành bởi
do nhiều khía cạnh, nhiều nhân duyên, nhiều duyên sở,
duyên khởi để tạo ra. Trong khi đó với một
quan niệm sai lầm chấp thủ về bản ngă, nghĩ
rằng có một đơn vị nào đó là một
đơn vị thuần nhất có mặt, và là chủ
nhân ông của thế giới tâm linh, thi` sự cố chấp,
sự chấp nhận phi ly' như thế, đó là trạng
thái của tà kiến.
Co`n ở
đây đối với mạn tâm sở thi` không phải
như vậy, không có sự cố chấp một cách sai lầm,
mà có thể họ dựa vào
những sự kiện đúng để họ khởi lên
sự tự hào, khởi lên sự tự măn, họ tự
đề cao, họ tự hănh diện, chúng ta gọi trạng
thái này là min.adit.t.hi. Do vậy cho nên ở đây ngă mạn
thi` nó không phải là chấp sai, mà nó có một sự kiện
nào đó do sự so sánh để
họ tự hào hay họ tự hănh diện.
Co`n
đối với tà kiến thi` một quan điểm chấp
sai lạc không đúng với chân ly', và vi` hai trạng thái
này, một cái thi` chấp sai, một đằng thi` không có
sự cố chấp sai lầm, mà chỉ là một vấn
đề so sánh giữa mi`nh và người khác thôi. Nên
đối với bậc hữu học vẫn có trạng
thái màna, một trạng thái phiền năo mạn, bởi vi`
đối với bậc hữu học những pháp gi` mà
vị đó đạt được bằng trí tuệ
thanh tịnh, và những đức tánh có được
đó vị này có một sự tự hào, có sự hănh diện.
Thi` khi tự hào hănh diện,
lúc đó là mạn sanh khởi, thi` chữ màna ở
đây nó từ cái động từ gọi là min.adit.t.hi, tức
là có sự so sánh hay so đo, so bi`, thi` như vậy trong
trường hợp này nó lại không phải một điều
phi chân ly' mà chỉ là một sự ỷ thế, chỉ vậy
thôi. Bởi vậy cho nên giữa hai trạng thái này nó đối
lập với nhau nên không thể nào đi chung được.
Bây
giờ chúng ta có một thí dụ, khi có những vị quan
cận thần tánh ương bướng hay căi vả. Mặc
dù đối với vị quan đai thần đó có thái
độ làm cho người khác khó chịu như vậy,
nhưng với vị quan này không thể được kể
như là kẻ địch bên ngoài, bởi vi` ở đây
ông ta vẫn làm việc trong triều một cách nghiêm túc, vẫn
có sự trung thành với vua v.v… Nhưng tại vi` tánh khí
hơi cống cao làm cho người chung quanh cảm thấy
hơi khó chịu một chút. Nhưng trạng thái khó chịu
đó không phải người ta nghĩ ông ta như một
kẻ thù, bởi vi` kẻ thù đối với họ là
khác, co`n ông quan cận thần này với thái độ
như vậy là một cách khác.
Cho
nên giữa tà kiến và mạn, thi` ở đây thưa qúi
vị mạn chúng ta dễ chấp nhận hơn tà kiến.
Tà kiến là một sự chấp sai lạc nó không đi
đúng theo chánh đạo, nó đi lệch với chánh
đạo, nó đối lập lại với chánh đạo
con đường để đưa đến sự
giải thoát. Co`n trong khi mạn
thi` nó vẫn phục tùng, và cũng có thể là có mục
đích cao thượng, với một vị đang có mục
đích cao thượng thi` trong khi đó mạn vẫn có
thể sanh khởi.
Như
chúng ta thấy trường hợp đối với bậc
hữu học thi` bậc này lấy Niết bàn làm đối
tượng và thiết tha với Niết bàn. Tuy nhiên trong
đời sống bi`nh nhật, trong cách sử sự của
vị đó lúc khởi lên tâm bất thiện so sánh về sự đời thi` đối với vị này
vẫn có một sự tự hào, thi` trong trường hợp
này vẫn có thái độ mạn.
Và
khi chúng ta cố gắng để chúng ta nhận xét, chúng
ta phân tích giữa hai trạng thái của hai thuộc tánh tà
kiến và ngă mạn, thi` lúc đó chúng ta sẽ hiểu tại
sao tà kiến và ngă mạn nó không đi chung với nhau, bởi
vi` nó không cùng một lập trường, nó không cùng một
phạm trù, do đó nó không thể nào đi chung với nhau
được. Chúng tôi đă cố gắng để
tri`nh bày những gi` chúng tôi có thể hiểu được,
có thể nói được. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật