A Tỳ Đàm, Bài 15.II.2 Ngày 17 tháng 9 năm 2004

Minh Hạnh nghe và sửa lại cho thành văn viết (biên soạn )& Cô Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính

Bài 15

Nhóm Thuộc Tánh Bất Thiện

Sở hữu bất thiện là những sở hữu chỉ hợp với các tâm bất thiện, gồm có 14 sở hữu tâm, được chia làm năm nhóm:

II Sở hữu Tham phần
Tà kiến

 

TT Giác Đẳng: Kính bạch Chư Tôn Đức và thưa qúi vị, đây là một vấn đề đặc biệt tế nhị. Kính bạch TT Trí Siêu, chúng ta thường chia ra tà kiến có hai loại là thường kiến hay đoạn kiến, không có một đoạn nào ở trong kinh điển xác nhận rơ về thân kiến, tức là chấp thủ sai về 5 uẩn, 5 uẩn là của ta, ta là 5 uẩn, 5 uẩn là ta, trong ta có 5 uẩn, trong 5 uẩn có ta chẳng hạn. Thi` chúng ta có cảm nhận một điều là thân kiến nó đi gần với thường kiến, bởi vi` cái gi` mà tin vào ngă, thi` thường tin vào cái gi` thường tồn.  Nhưng cũng có những trường hợp người ta, thí dụ như tài sản vật chất, biết là nó không thường tồn, nó không vĩnh cửu tới kiếp sau, nhưng kiếp này mi`nh vẫn tin nó là của mi`nh. Thi` theo TT Trí Siêu nghĩ là thân kiến, thi` chúng ta đặt để nó ở chỗ nào cho thích hợp, nó có hẳn nằm trong thường kiến hay không? TT cũng hoan hỷ  trả lời là tại sao ở trong mười kiết sử, khi đề cập đến mười kiết sử thi` tà kiến không kể là một kiết sử riêng biệt, chúng ta chỉ thấy dấu vết của thân kiến nằm ở trong đó, mà không thấy tà kiến nằm ở trong những phần khác.  Thi` kính thỉnh TT Trí Siêu hoan hỷ nói rơ về điểm này, xin kính cung thỉnh TT.

 

TT Trí Siêu: Kính bạch Chư Tăng và kính thưa qúi vị, qua câu hỏi của TT Giác Đẳng đă hỏi chúng tôi hai vấn đề. Trước hết chúng tôi xin được tri`nh bày về y' nghĩa thường kiến, vấn đề thân kiến chấp ngă nên đặt ở vị trí thường kiến hay là đoạn kiến.  Thi` ở đây chúng tôi cũng xin thưa rằng theo tinh thần của bài kinh Phạm Vơng nói về 62 tà kiến, ở đó thân kiến nằm trong nhóm của thường kiến.

 

Thân kiến là chấp ngă đối với ngũ uẩn, hễ cái gi` có gắng liền với bản ngă thi` trong trường hợp đó chúng sanh lại có sự chấp thủ.  Cái ngă là trường tồn và bất biến, vĩnh hằng, nó không bị biến hoại, nó luôn luôn co`n, luôn luôn có, bởi vậy cho nên thân kiến, ở đây theo chúng tôi nghĩ là phải để trong phần thường kiến đúng hơn là chúng ta xếp vào đoạn kiến. 

 

Trường hợp TT Giác Đẳng đă nêu lên, có thể có một số người họ chấp vào tài sản ngay trong hiện tại: tài sản này là của tôi, họ chấp như thế, nhưng với quan niệm khác người này vẫn có đoạn kiến, bởi vi` không hiểu biết được pháp cho nên người đó không tin có đời này, không tin có đời sau, không tin có quá khứ, không tin có vị lai thi` như vậy người đó đă rơi vào đoạn kiến.

 

Thế thi` một người có đoạn kiến thi` sao họ lại có thể có thường kiến được nữa, lúc nào chấp đoạn kiến là đoạn kiến, co`n lúc nào họ chấp thường kiến là thường kiến, khi họ chấp ngă thi` họ rơi vào thường kiến.  Nhưng khi nào họ chấp không, không có ân đức cha, không có ân đức của mẹ, không có các loại hoá sanh, không có đời sau, không có quả báo, thi` khi họ chấp như vậy mới được xem là đoạn kiến.  Cho nên ở đây thân kiến phải được xếp vào nhóm của thường kiến, đó là vấn đề thứ nhất.

 

Trong vấn đề thứ hai, TT Giác Đẳng hỏi chúng tôi, trong 10 kiết sử samyojana được đề cập đến thi` trong đó lại chỉ thấy nói đến thân kiến sakkàyadit.t.hi nhưng không nói đến vấn đề tà kiến, thi` ở đây chúng tôi cũng xin thưa rằng: đối với kiết sử samyojana nói theo kinh tạng thi` lại nhấn mạnh ở chỗ thân kiến sakkàyadit.t.hi. Nhưng ở trong A Ty` Đàm khi đề cập đến kiết sử này thi` nó là kiếm triền dit.t.hisamyojana rơ ràng trong trường hợp đó ở trong Vi Diệu Pháp lại nói bao trùm có cả tà kiến, nói đến tà kiến chung chứ không phải chỉ nói riêng thân kiến. 

 

Tuy nhiên chúng ta có thể lập luận trường hợp tại sao trong mười kiết sử lại chỉ dùng đến danh từ gọi là thân kiến mà không có đề cập đến những tà kiến khác, và vị Tu Đà Hườn thi` đă đoạn trừ thân kiến, như vậy thi` tà kiến khác với đoạn kiến có diệt trừ không đối với vị Tu Đà Hườn? Thi` ở đây chúng tôi xin thưa rằng: Như chúng ta đă biết cái gi` nó gần gủi nhất, gắn bó nhất và tế nhị nhất mà cái đó đoạn trừ được, thi` những cái khác chúng ta cũng đoạn trừ được.

 

 Một sợi dây leo khi nó quấn quanh cây cổ thụ, lúc bấy giờ khi mà muốn phá bỏ để giải thoát cho thân cây cổ thụ khỏi bị dây leo, người ta không cần phải đề cập đến những nhánh của sợi dây leo ở phía trên, mà họ chỉ cần cắt đứt gốc của sợi dây leo, như vậy thi` toàn bộ thân dây leo ở phía trên nó cũng sẽ héo, nó cũng bị hủy diệt.

 

Cũng như thế, thân kiến được coi như là một thứ tà kiến, thường xuyên xảy ra gần gủi nhất đối với quan niệm của chúng sanh phàm phu, ngay cả như đối với những người phàm phu tu tập trong Phật pháp, được xem như là một người có sự hiểu biết chánh kiến, nhưng đối với tà kiến mà thuộc về thân kiến sakkàyadit.t.hi vẫn có chứ không phải là không có. 

 

Hàng ngày vẫn có sự chấp thủ về bản ngă đối với ngũ uẩn: tôi mập, tôi ốm, là nói về chấp uẩn là tôi, là của tôi, là tự ngă của tôi chẳng hạn.

 

Tôi buồn, tôi vui, trong trường hợp đó là chấp thủ về thọ uẩn có liên hệ đến bản ngă.

 

Tôi nhớ, tôi biết, tôi làm thiện, tôi làm ác, tôi nhận thức cảnh sắc, tôi nghe tiếng, tôi ngửi mùi v.v...thi` như vậy chấp vào thức uẩn. 

 

Thi` rơ ràng trong trường hợp này chúng ta thấy rằng nếu như lúc nào chưa đoạn diệt được thân kiến như vậy là tà kiến vẫn co`n có trong lúc đó đối với chúng sanh này.  Mà hễ khi nào đoạn trừ được thân kiến thi` ngay khi đó những thường kiến khác và đoạn kiến cũng bị tiêu diệt luôn.

 

Cho nên trong trường hợp này ở tạng kinh khi nói đến mười kiết sử, thi` về phần tà kiến chỉ đề cập đến thân kiến mà thôi.  Nói rằng vị Tu Đà Hườn đă đoạn trừ thân kiến là nhấn mạnh ở chỗ khía cạnh mấu chốt trọng yếu của tà kiến, xem như là đầu năo của tà kiến, và hễ vị Tu Đà Hườn đoạn diệt được đầu năo tà kiến đó thi` cả những tà kiến khác cũng bị tiêu diệt không có sự chấp thủ cách sai lạc.

 

Đó là câu trả lời cho câu hỏi của TT Giác Đẳng với hai phần về sự xếp đặt vào hệ thống thường kiến hay đoạn kiến đối với thân kiến, thứ hai là vi` sao tà kiến ở trong thập triền sử hay thập kiết sử lại chỉ nói đến về thân kiến, chúng tôi xin trả lời là như vậy. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 

Minh Hạnh