A Tỳ Đàm, Bài 15.II.2 Ngày 17 tháng 9 năm 2004
Minh Hạnh nghe và sửa
lại cho thành văn viết (biên soạn
)& Cô Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính
Bài
15
Nhóm
Thuộc Tánh Bất Thiện
Sở hữu bất thiện là những sở hữu chỉ hợp với các tâm bất thiện, gồm có 14 sở hữu tâm, được chia làm năm nhóm:
II
Sở hữu Tham phần
Tà kiến
TT Giác Đẳng: Nam Mô Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật, kính đảnh lễ Sư Trưởng,
kính đảnh lể TT Trí Siêu cùng với tất cả
Chư Tôn Đức có mặt ở trong rơom. Trong bài học hôm nay
chúng ta sẽ thảo luận về một thuộc tánh ở
trong nhóm tham phần như đă được nghe, đó
là thuộc tánh tà kiến.
Phải nói rằng khi đi vào thuộc
tánh này lại mở cho chúng ta nhiều đầu mối
đặc biệt quan trọng.
Người Phật
tử bi`nh thường không học A Ty` Đàm thi` nghĩ
rằng sự trách sai hiểu lầm là mê mờ u mê, và sự
u mê đó nó phải nằm ở trong tâm si, đó là quan niệm
thường thức. Chúng ta sẽ ngạc nhiên thấy rằng ở
trong A Ty` Đàm đặct tà kiến vào trong tham phần,
và tà kiến đi với tâm tham. Nếu tính từng
trạng thái như sân và si thi` chúng ta thấy rơ rằng tại
sao sân và si không thể đi với tà kiến được,
mà chỉ có tâm tham.
Đây là một
điểm đặc biệt thú vị về trên
phương diện tâm ly' khi chúng ta đề cập đến
tà kiến, và cũng phải nói thêm là tà kiến thuờng
được hiểu ở trong cái nhi`n
chung, là một cái nhi`n được nhồi nặn để
một cái qúa tri`nh tư duy. Ví
dụ như con người hiểu sai về một sự
nhận định nào đó, và ít có khi nào chúng ta nghĩ rằng
cái nhi`n như vậy nó lại có một
bản chất ở trong một dạng hết sức
phôi thai như là thuộc tánh của tham phần, ở
đây tức là thuộc tánh tà kiến.
Ngày hôm nay trong phần
giảng về thuộc tánh này, lát nữa riêng phần thảo
luận có thể nói rằng đây là một trong những
thuộc tánh cần rất nhiều sự chú y' thảo luận
của chúng ta, vi` là một đề tài không những chỉ
đặc biệt quan trọng trong A Ty` Đàm, lại là một
đề tài hết sức phổ thông ở trong kinh tạng. Bây giờ thi` để
mở đầu cho bài học ngày hôm nay, xin cung thỉnh TT
Trí Siêu hoan hỷ giảng giải cho y' nghĩa của thuộc
tánh này và sau đó là phần thảo luận của Chư
Tăng, kính thỉnh TT Trí Siêu.
TT Trí Siêu: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, kính
đảnh lễ Sư Trưởng, kính đảnh lễ
TT Giác Đẳng, kính chào qúi Phật tử. Hôm
nay chúng ta sẽ học về thuộc tánh thứ hai trong
nhóm tham phần. Trong nhóm tham phần gồm có ba thuộc tánh là tham,
tà kiến và ngă mạn. Thi` đối với tà kiến, một thuộc
tánh nó có tánh chất cố chấp một cách sai lạc. Và cũng như chúng tôi đă có
tri`nh bày với qúi vị trong nhiều trường hợp
của các thuộc tánh khác, khi chúng ta học một thuộc
tánh nào đó, một loại tâm sở nào đó thi` chúng ta vừa
phải tri`nh bày về nghĩa ly' thực tính nguyên sơ của
thuộc tánh đó, khi nó trở thành một yếu tố,
hay một chất liệu cho tâm mà nó tương ưng, rồi
sau đó chúng ta mới mở rộng ra và chúng ta nói theo y'
nghĩa của kinh tạng có liên quan đến pháp môn này,
nhờ như vậy mà chúng ta mới có thể dung hoà
được giữa y' nghĩa thường thức và
y' nghĩa chuyên môn.
Ở đây kính
thưa qúi vị khi chúng ta nói đến tà kiến tâm sở,
thi` chúng ta cũng nên ghi nhận rằng tà kiến tâm sở
là một thành phần luôn luôn đồng sanh với căn
tham lobhamu`la tức là nó đồng sanh với tham tâm sở,
và sanh trong tâm tham, bởi vi` tà kiến cũng có trạng
thái cảnh biết bằng cách chấp cứng đối
tượng như là tham tâm sở vậy. Chỉ có điều
là tà kiến tâm sở thi` lại là một khuynh hướng
biết cảnh với quan niệm sai lạc với sự
cố chấp phi ly'. Ở đây tà kiến tâm sở khi phối hợp
với tâm, thi` nó có chức năng hay phận sự là cố
chấp. Gọi là cố
chấp có nghĩa là chấp sai lạc, chấp một cách
hơi cực đoan mà chúng ta gọi pa`ra`ma`sa Và sự thành
tựu của tâm sở tà kiến là có khuynh hướng
sai lạc gọi là miccha`bhinivesa chúng ta chỉ nên nói hai
điều đó, co`n về trạng thái và nhân cần thiết
thi` chúng ta sẽ bàn luận sau.
Ở
đây thưa qúi vị, bất luận một trường
hợp nào tà kiến sanh khởi, thi` cũng phải đồng
sanh với trạng thái tâm tham.
Tại sao chúng ta nói như vậy, là bởi vi`
cả hai thuộc tính tham và thuộc tính tà kiến nó đều
chung nhất về một khía cạnh bám chắc, dính mắc
vào đối tượng, chỉ có như vậy thôi, cho
nên chúng đi chung với nhau được. Và ở đây chúng
ta cần phải hiểu là tà kiến sanh lên trong trường
hợp nào mà sanh chung với tâm tham.
Thưa qúi vị ở
đây sắc khả ái khả y', thinh khả ái khả y',
hương khả ái, vị khả ái, súc khả ái và pháp
khả ái, sáu cảnh đó đều là đối tượng
của tâm tham cả, và khi một trạng thái tâm tham dính mắc
quyến luyến với cảnh trong đó có một y' niệm
sai lạc, thi` như vậy tâm tham này được gọi
là tham hợp tà kiến, hay tâm tham tương ưng tà kiến
dit.t.higatasampayuttam lobhamu`lam cittam Một người khi họ
hưởng thụ dục lạc, họ có một y' niệm
sai lầm về một sự thường co`n đối
với vị ngọt của các dục lạc. Họ có một
cái nhi`n sai lạc như vậy thi` gọi
là tham tương ưng với thường kiến.
Một người
khi họ thụ hưởng dục lạc, mà họ khởi
lên y' niệm cho rằng tất cả mọi sự
vật đều phải biến hoại, đều phải
tiêu diệt sau khi chết là hết, thế thi` sống phải
thụ hưởng, họ tham đắm trong dục lạc
ngũ trần với y' niệm là phải thụ hưởng
vi` trên đời này chết là hết, như vậy tội
gi` không thụ hưởng, họ có một y' niệm chung
quanh như vậy. Đây được gọi
là tham câu hữu với đọan kiến.
Co`n một trường hợp
khác nữa, là có những trường hợp đối với
các vị đạo sĩ, hay các vị hành giả họ
tu tập về thiền định, khi họ đắc
được thiền với trạng thái hỷ lạc
của thiền, họ thích thú họ hoan hỷ, họ khởi
lên tâm đắm nhiễm, và lúc đó ngay trong lúc họ
đắm nhiễm với trạng thái của thiền lạc,
thi` họ khởi lên một y' nghĩ đây là một sự
hạnh phúc trường tồn vĩnh hằng, hạnh
phúc này đặc biệt hơn, thù thắng hơn là hạnh
phúc an lạc của dục lạc ngũ trần. Với vị hành giả
đó thi` họ có sự quan niệm về thường kiến
đối với sự hạnh phúc của thiền lạc,
của thiền chứng nên họ khởi lên tham
tương ưng với tà kiến, trong trường hợp
này chúng ta gọi là hữu ái. Qua những
sự dẫn chứng như vậy, chúng ta có thể hiểu
được vai tro` cũng như trường hợp của
tà kiến phối hợp với tâm tham.
Thưa qúi vị
chúng ta lại nói đến sự kiện tà kiến theo y' nghĩa kinh tạng một cách thường
thức mà chúng ta đề cập đến, trước
hết chúng ta hăy phân loại tà kiến. Tà kiến ở đây thưa qúi
vị, trong bài kinh Brahmajàla Sutta, kinh Phạm Vơng của
Trường Bộ kinh, thi` bài kinh này đă được
Đức Thế Tôn thuyết giảng với 62 tà kiến,
Ngài đă tri`nh bày 62 tà kiến mà các vị Samôn, BàLaMôn, phàm
phu, trong đời này đă chấp thủ. Và khi Đức Thế Tôn tuyên bố
về những tà kiến của các Samôn, Bàlamôn, phàm phu
như vậy, thi` không có một thứ tri kiến nào, một
thứ tà kiến nào của các Samôn, Bàlamôn mà không nằm ở
trong 62 tà kiến, Đức Thế Tôn đă nêu lên. Cho nên giống như một mẻ
lưới, một tấm lưới có thể giăng bắt
được tất cả những con cá, khi con cá nào lọt
vào trong lưới thi` không thể thoát ra được,
cho nên bài kinh này được đề tựa là Brahmajàla
Sutta tức là Phạm Vơng, chữ Jàla ở đây là mảnh
lưới.
Thi` bây giờ trong 62
tà kiến đó chúng ta có thể gom lại thành hai thứ
tà kiến hoặc là ba thứ tà kiến, chúng ta gom lại
thành hai thứ tà kiến là thường kiến
Sassatadit.t.hi là một sự chấp thủ quan điểm
về sự thường co`n của thế gian, cho rằng
tất cả những gi` ở trong đời đều
là trường tồn bất biến. Có thể có một
số người họ cũng nhi`n thấy
được đối với sắc uẩn này là vô
thường biến hoại, họ thấy rơ qua những
hiện tượng già, thay đổi của thể xác. Nhưng họ vẫn chấp thủ được
tâm này là một sự vĩnh hằng, là một đơn
vị bất biến như là một linh hồn, một bản
ngă, một cái tự thể.
Họ chấp như vậy thi` cũng rơi vào ti`nh
trạng gọi là thường kiến Sassatadit.t.hi
Và trường hợp
thứ hai, chúng ta gọi là đoạn kiến Ucchedadit.t.hi
một người họ chấp thủ quan điểm
có khuynh hướng chủ trương đoạn diệt
của thế gian, họ cho rằng tất cả những
sự kiện ở đời không phải do nhân ở quá
khứ mà cũng chẳng có quả ở tương lai, chỉ
có kiếp sống hiện tại, không có quá khứ, không có
vị lai, sau khi chết là hết, người chấp thủ
như vậy chúng ta gọi là đoạn kiến.
Nếu như chúng ta
nói đến trường hợp thứ ba là chúng ta nó về
Natthikadit.t.hi là
vô kiến, vô kiến tức là chấp không, cái này nguy hiểm
hơn đoạn kiến, bởi vi` có những người
họ rơi vào ti`nh trạng đoạn kiến, họ
cho rằng không có thiện, ác, quả báo, không có đời
này, không có đời sau v.v... Nhưng bản
chất của họ vẫn là người có thể là
người tốt, có thể là người hiếu kính
đối với cha đối với mẹ chẳng hạn.
Nhưng với người vô kư thi` họ chấp thủ
một cách hết sức nguy
hiểm, họ chấp rằng không có đời này, không
có đời sau, không có đời có các loại hoá sanh,
không có quả báu, quả dị thục của hành vi thiện
và ác. Mà họ chấp rằng, họ quan niệm rằng
cha không có ân đức, mẹ không có ân đức, không thể
có được cái sự chứng đắc thượng
nhân pháp của các vị Samôn, Bàlamôn đă nỗ lực.
Đây là những điều hết sức nguy hiểm cho
một người chấp về vô ky'.
Thi`
như vậy ở cấp độ chúng ta thấy rơ một
người họ chấp về đọan kiến, nếu
như vô nhân kiến, vô quả kiến và vô hành kiến,
thi` trong trường hợp này chúng ta thấy đối với
một người họ chấp về đoạn kiến
có thể nói rằng mười điều này hết sức
nguy hiểm. Trong bài kinh Sevitabba-asevitabbasuttam là
kinh Nên Hành Tri` và kinh Không Nên
Hành Tri` của Trung Bộ kinh, đề cập đến
vấn đề chứng đắc nên hành tri` và không nên
hành tri`. Tôn giả Xá Lợi Phất
Ngài đă giải thích , Ngài nhấn mạnh
về khía cạnh kiến đắc không nên hành tri` đó là mười
loại tà kiến chấp không. Thay vi` ở đoạn
đầu tức là nói về thân thành, khẩu hành và y'
hành, trong y' hành đó đă nhắc đến vấn đề
y' hành nên hành tri` và không nên hành tri`.
Y' hành nên hành tri` đó là chánh kiến, y'
hành không nên hành tri` đó là tham ác sân ác và tà kiến. Đă nhắc đến
như vậy rồi nhưng qua phần kiến đắc
thi` được lập lại một lần nữa cũng
thuộc về tà kiến.
Nhưng tà kiến
được nhấn mạnh ở đây là mười
thứ vô ky', bởi vi` mức độ
nguy hiểm của nó rất nguy hiểm, và thưa qúi vị
về thường kiến chúng sanh chấp về quan niệm
thường co`n đối với thế gian. Ở đây cũng có những
trường hợp được phân chia đại loại
như một người chấp về cái đại ngă,
một vị phạm thiên, một vị thượng
đế, một vị sáng tạo chủ đại ngă
đại hùng của các vị đó là bất biến là vĩnh
hằng, như vậy cũng là một cách kiểu cách chấp
về thường kiến. Và trường hợp có
người họ chấp vào bản ngă, hay gọi là tiểu
bản ngă, tức là chấp vào một linh hồn thường
co`n bất biến vĩnh hằng, thể xác này có tiêu hoại,
nhưng tâm thức không tiêu hoại, chấp như vậy
cũng là một hi`nh thức gọi là
thường kiến.
Hoặc
có người họ chấp rằng quá khứ như thế
nào thi` hiện tại tương lai cũng như thế
đó, chẳng hạn như quá khứ một người
họ nghèo khổ, thi` hiện tại tương lai cũng
vẫn là nghèo khổ, định mệnh đă là như vậy. Hoặc quá khứ
họ giàu sang làm vua chúa, thi` ngay trong hiện tại cũng
giàu sang làm vua chúa, và trong tương lai cũng vậy đời
sau là vua chúa, không có sự biến dịch, không có sự
đổi thay định mệnh này, thi` như vậy
trong trường hợp đó cũng là một hi`nh thức
chúng ta gọi là chấp về thường kiến.
Ở đây thưa
qúi vị khi chúng ta nói đến các loại tà kiến, những
loại tà kiến trong thế gian này rất phức tạp,
và có thể nói rằng phức tạp như một mảnh
lưới được giăng ra, chúng ta thấy lằn
ngang lằn dọc đan chéo với nhau, và chúng sanh bị
mắc vào trong mạng lưới tà kiến như vậy
không thể nào thoát ra được, khó có thể thoát ra
được, đó là chúng ta phân loại về tà kiến.
Bây giờ chúng ta lại
nói đến ti`nh trạng nguy hiểm của
tà kiến, ở đây thưa qúi vị, chỉ nói riêng về
vấn đề thường kiến và đoạn kiến
thôi, chúng ta nói đến sự nguy hiểm của nó cũng
có sự chênh lệch với nhau. Thường
kiến khi một người họ chấp về quan niệm
thường co`n của thế gian, dù sao đi nữa thi`
đối với người này họ cũng vẫn có
chấp nhận một điều có quá khứ, có hiện
tại và có vị lai. Khi
họ chấp nhận một vị thần linh, một
thượng đế một sáng tạo chủ, thi` họ
vẫn có niềm tin rằng hi`nh thức thưởng phạt
ban phước hay tha tội khi mi`nh làm tốt hay làm xấu
đều có thể xảy ra v.v... thi` một người
do chấp như vậy và cái quan niệm đó, nhờ
như vậy họ vẫn có thể làm được các
điều công đức, mặc dầu những điều
công đức đó chỉ là hiệp thế, chỉ là hữu
lậu thôi, nhưng dù sao đi nữa họ vẫn có thể
làm được các điều công đức song song với
sự chấp sai lạc.
Co`n đối với
một người chấp đoạn kiến rồi,
thi` với người đó họ khó có thể làm
được công đức phước báu, bởi vi`
tâm của họ đă phủ nhận về những hành
động tốt có quả dị thục, hành động
xấu có quả dị thục, cho nên lúc bấy giờ họ
không thiết tha trong việc làm thiện và họ không sợ
hăi trong việc làm ác. Người
ta mới có câu nói rằng :"linh chấp
hữu như tu di mạc chấp vô di giới tử"
thà chấp thường kiến to lớn bằng núi tu di
chứ đừng có chấp đoạn kiến dầu nó
nhỏ bằng hạt cải. Đem so sánh hạt
cải và núi tu di thi` chúng ta thấy một trời một
vực, cũng khó nói được.
Xét người chấp
thường kiến thi` ít có sự nguy hiểm cho bản
thân họ hơn, co`n người chấp đoạn kiến
thi` phải nói quá ư nguy hiểm, bởi vi` họ có thể
tạo những điều phi công đức, thậm chí
người rơi vào ti`nh trạng đoạn kiến họ
có thể giết cha, có thể giết mẹ, có thể giết
các bậc thánh nhân chẳng hạn thi` trong trường hợp
đó hết sức nguy hiểm.
Co`n người chấp về thường kiến
thi` có thể là những cái điều sai lạc, những
hành động ác nhỏ thi` họ làm, nhưng những
hành động ác tày trời họ vẫn co`n có một
chút ngượng ngập không dám làm. Bởi vậy
ở đây chúng tôi chỉ nói đến vấn đề
thường kiến và đoạn kiến thôi, mà chúng ta thấy
sự nguy hiểm của nó ở một mức độ
cũng có cao thấp khác nhau.
Co`n bây giờ chúng ta
nói chung về vấn đề tà kiến nó có sự nguy hiểm
như thế nào, ở đây thưa qúi vị hễ chánh
kiến dẫn đầu cho con đường chánh đạo
để đưa đến cái sự giải thoát khỏi
khổ sanh tử luân hồi, như chánh kiến, chánh
tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh
tấn, chánh niệm, chánh định, thi` ngược lại
tà kiến nó đi ngược với con đường
chánh đạo, mà nó trở thành con đường tà đạo. Do vậy một người
rơi vào ti`nh trạng tà kiến thi` phải nói mục
đích giải thoát rất xa vời đối với họ,
đó là chúng ta chưa nói đến những hậu quả
nó phát sanh lên do hành động
bị xúi dục bởi tà kiến thi` càng đưa
đến sự nguy hiểm hơn nữa.
Người ta nói rằng
một ông Thầy thuốc mà lầm lẫn thi` chết một
vài bịnh nhân, một nhà chính trị mà lầm thi` hại
một nước, một nhà văn mà lầm thi` hại cả
một thế hệ của con người cho toàn nhân loại. Nhưng chỉ là một
thế hệ năm ba chục năm vậy, nhưng một
người tu tập mà tri kiến sai lạc lầm lẫn
thi` đưa đến sự tác hại vô lượng kiếp. Thậm trí có những người
do thường cận y duyên họ chấp chặc những
quan niệm sai lầm, quan niệm tà kiến. Những người
đó đến khi họ gặp Đức Phật thi` phải
nói rằng họ đă tạo cho Đức Phật một
sự khó khăn vất vả trong việc tiếp độ
họ. Ở trong quá khứ
vi` họ có
tạo phước Balamật, và họ cũng nguyện giải
thoát, nhưng rồi sau đó sanh hữu che lấp cho nên
trong suốt gio`ng sanh tử luân hồi trong kiếp hiện
tại này họ lại là người có tà kiến. Nhưng nếu họ là người
có tà kiến thường thi` Đức Phật Ngài có thể
thuyết phục, Ngài có thể dẫn dắt họ trở
lại với nẻo chánh đạo được,
nhưng với một người có ác tà kiến thi` chuyện
đó vô phương.
Và ở đây
thưa qúi vị Đức Phật có tuyên bố rằng một
người ác tà kiến có hai cảnh giới tái sanh dành
cho họ, tức là địa ngục và súc sanh sau khi họ
mệnh chung.
Một người tà kiến hết sức nguy hiểm
như vậy, mà nếu như một người đoạn
kiến nữa thi` địa ngục nơi họ sanh ra
đó không phải là địa ngục bi`nh thường,
mà địa ngục đó gọi là Maha`ta`pana là địa
ngục không gian, địa ngục này hết sức nguy
hiểm. Ở đây chúng tôi
không mô tả mà phải biết rằng địa ngục
đó khổ đau cùng cực hơn tất cả 18 tầng
địa ngục kia.
Bây giờ
chúng ta nói đến sự nguy hiểm của một
người có tà kiến, sự nguy hiểm trở ngại
cho đường lối tu tập. Ở đây
như chúng ta đă biết là hễ sai một ly thi` nó
đi một dậm, một đoàn xe lửa chuẩn bị
khởi hành mà toa đầu máy của đoàn xe lửa
đó, toa máy này nếu trong những vo`ng lăn bánh đầu
tiên trên đường ray bị lệch ra khỏi
đường ray, thi` lúc bấy giờ chúng ta phải biết
hậu quả gi` xảy ra cho đoàn tàu đó, đoàn tàu
hoả này nó sẽ bị lật ngă bởi vi` đầu
tàu của nó đă đi lệch với đường ray
và do đó không thể chạy đến mục đích,
không thể chạy trong suốt cuộc hành tri`nh mà bị
lật ngang. Thi` của chúng ta
cũng vậy, khi chúng ta rơi vào ti`nh
trạng tà kiến, điều này sẽ làm cho chúng ta có một
sự nhận định sai lạc về đường
lối tu tập.
Và khi nhận định
sai lạc về đường lối tu tập mà Đức
Thế Tôn đă chỉ vẽ cho họ, họ không chấp
nhận và họ tự đưa lên một đường
lối khác, và đường lối của kẻ phàm phu
sáng kiến này thi` chắc chắn phối hợp với
tà kiến và đưa đến ti`nh trạng không mấy
tốt đẹp, như vậy họ rơi vào ti`nh trạng
gọi là ác tà kiến thi` sự tu hành bị chận đứng
ngay, bị phá vỡ ngay, sau khi chết họ phải tái
sanh vào những cảnh giới nó không được thuận
lợi, không được tốt đẹp.
Ở đây thưa
qúi vị, đối với một vị ty` kheo khi vị
ty` kheo đó khởi lên một sự tà kiến như ty`
kheo Alitha chẳng hạn, thi` bấy giờ các vị ty`
kheo khác khi nhắc cho thấy rằng nếu hiền giả
chấp sai hiểu lầm như vậy là hiền giả
đă xuyên tạc Đức Thế Tôn, đă nói không
đúng về Đức Thế Tôn. Chúng ta thấy rơ như vậy, một
người có tà kiến sanh khởi, một vị đệ
tử của Đức Phật mà khởi lên ác tà kiến
xem như là đă xuyên tạc Đức Phật, phỉ
báng Đức Phật. Những vấn đề tà kiến
nó có sự nguy hiểm như thế, nên trong việc tu tập
của chúng ta, chúng ta phải chỉnh đốn lại
tri kiến của mi`nh, làm sao tri kiến đó trở thành
chánh kiến chứ đừng rơi vào ti`nh trạng tà kiến
hay tri kiến điên đảo.
Một người
có tà kiến hay tri kiến điên đảo, thi` đối
với người đó ở trong cuộc sống này cái
gi` vô thường họ cho là thường, đau khổ
họ cho là an lạc, vô ngă họ cho là hữu ngă, bất tịnh
họ cho là thanh tịnh đó gọi là tri kiến điên
đảo Vipalla`sadit.t.hi Và với tri kiến điên đảo
này có thể nói rằng một sự nguy hiểm cho
đường lối tu tập của họ, hay nói cách
khác là rất nguy hiểm cho sở hành của họ. Nguyên
nhân phát sanh lên tà kiến chúng ta phải nói có hai:
1) Một là Paratoghosa là do nghe người
khác nói.
2) Thứ
hai gọi là ayonisomanasika`ra .tức là không dùng trí tuệ
để quán sát hay gọi là không khéo tác y’.
Khi nghe người
khác tuyên bố về điều này hay điều nọ,
tuyên bố về ly’ thuyết này, ly’ thuyết kia, một người nhẹ dạ cả
tin chưa kịp phán đoán thi` họ đă tin chắc
theo rồi, như vậy có thể dễ dàng rơi vào
ti`nh trạng tà kiến. Nếu
như một vị Samôn Bàlamôn thuyết không đúng với
chân ly’ mà người nghe bằng sự cả tin không có sự
cân nhắc suy tư, người này sẽ rơi vào ti`nh trạng không mấy tốt đẹp.
Trường hợp một người không có sự khéo
tác y’, là y’ nghĩa rằng khi gặp một sự kiện
xảy ra, nếu có thể nói là sự kiện đó xảy
ra hơi lạ lùng một chút, hơi hy hữu một chút,
lúc bấy giờ đối với một người
không khéo tác y’ thi` họ lại chắp nhận và hiểu lầm.
Chẳng hạn
như khi một người nghe người ta đồn
rằng ở đàng kia có một cái giếng
nước, mà múc nước ở đó uống vào sẽ
hết bịnh, trị được bá bịnh chẳng
hạn. Người này không chịu
phân tích cân nhắc cho hợp ti`nh hợp ly’ theo
tánh cách nhân quả, hay theo sự thử nghiệm của y
học về chất nước này có tốt, hay là xấu,
nó có những chất gi` và những chất đó ở
trong nước có thể làm thuốc để trị bịnh
được không. Chưa có
sự kiểm nghiệm như vậy mà họ chỉ nghe
người ta đồn là uống nước đó sẽ
hết bịnh, thi` họ lại chấp sai lạc, họ
rơi vào ti`nh trạng gọi là thường
kiến, họ chấp sai lạc như thế, chúng ta gọi
đây là cái nguyên nhân không khéo tác y’ phát sanh lên tà kiến.
Co`n trường hợp
đối với một người họ khởi sanh
lên chánh kiến nó cũng có hai cách, một là do nghe người
khác, tức là khi chúng ta nghe được Đức Phật
thuyết pháp hay các vị để tử của Ngài thuyết
pháp, thi` chúng ta y cứ vào Đức Phật là đấng
giác ngộ, Ngài thuyết pháp chân chánh khéo thuyết. Chúng ta
tin tưởng vào tăng chúng là những vị thánh
tăng đă đoạn trừ các lậu hoặc phiền
năo, cho nên với niềm tin đó khi chúng ta nghe các vị
này thuyết chúng ta cứ tin theo đi, chúng ta cứ chấp
nhận đó là chánh kiến, bởi vi` Đức Phật
không bao giờ thuyết sai lệch với chân ly’, chư vị
thánh A La Hán không bao giờ tri`nh bày cái điều phi ly’, thậm
trí là bậc hữu học Tu Đà Hườn là các Ngài cũng
đă đoạn trừ được tà kiến rồi
cho nên những gi` các Ngài nói và chúng ta nghe thi` những điều
đó là sự thật.
Nguyên nhân thứ hai nữa
phát sanh lên chánh kiến đó là yonisomanasika`ra tức là khéo
tác y’, một người luôn luôn dùng trí tuệ, chữ
yoniso ở đây tức là chúng ta phải hiểu trí tuệ,
dùng trí tuệ để cân nhắc, để suy xét các hiện
tượng theo ly’ nhân quả, theo những sự kiện
hợp ti`nh hợp ly’, thi` như vậy nhờ họ có
trí tuệ khéo tác y’, như vậy họ phát sanh lên
được chánh kiến, đó là vấn đề chúng
ta cần phải biết qua.
Ỡ đây thưa
qúi vị, trong đường lối tu tập chúng ta cần
phải biết rằng tri kiến hết sức quan trọng,
tri kiến gọi là
samma`dit.t.hi nếu một tri kiến chân chánh thi`
nó sẽ dễ dàng để dẫn đến sự tu tập
viên măn, co`n nếu như thuộc
về miccha`dit.t.hi Tà kiến thi` phải nói là một sự
nguy hiểm vô cùng. Khi chúng ta đề cập đến vấn
đề này trong bài học ngày hôm nay, thi` tất cả
người Phật tử chúng ta đều phải
lưu y’ đến việc chúng ta sửa đổi cái tri
kiến của mi`nh. Sự
cải thiện được cái trí thức của mi`nh cho được chơn chánh đó cũng
là một cái nguyên nhân để chúng ta tạo được
phước báu.
Trong mười
điều gọi là Pun~n~a`kiriyavatthu thập phước
hành hay là phước nghiệp sự, trong đó nếu
chúng ta có sự uốn nắn kiến thức cho được
ngay thẳng, hiểu biết một cách đúng đắn,
thi` như vậy chúng ta tạo được phước
báu, và cái phước báu đó nó lại bao hàm cả phước
vật, phước đức và phước trí. Ở trong chú giải nói rằng
mười pháp hạnh phúc đó, bố thí hồi hướng
phước, tùy hỷ phước là nhân phát sanh lên phước
vật chất, tri` giới, cung kính phục vụ là nhân
phát sanh lên phước đức, sự tu thiền, sự
thính pháp thuyết pháp là nhân phát sanh lên phước trí,
như vậy là chúng ta có 9 pháp rồi, nhưng trong chú giải
nói thêm rằng phước nghiệp sự thứ 10 là cải
chánh kiến thức thi` nó tạo được cả ba
loại phước. Bởi vi` một người trong khi mà họ làm
phước bố thí nếu có tương ưng với
trí tuệ để làm, thi` trong trường hợp đó
là phát sanh lên phước vật chất về sau.Như vậy
là trí tuệ chơn chánh ở đây nó tạo được
phước vật chất.
Một người
khi giữ giới hoặc họ tu tập những thiện
pháp liên quan đến phước đức, nếu
như người đó giữ giới bằng một tâm
thiện tương ưng với trí tuệ có chánh kiến
phối hợp cải tà gọi là cải chánh kiến thức,
thi` như vậy việc tu giới của họ vẫn tạo
được phước đức, cho nên chúng ta mới
gọi là sự cải chánh kiến thức nó tạo ra
phước đức. Rồi
khi chúng ta tu tập về thiền định, hay chúng ta tu
tập về sự thính pháp và thuyết pháp, chúng ta tạo
những nguồn công đức phước báu đó chúng
ta lại có được một tri kiến chân chánh phối
hợp, nghĩa là chúng ta có sự cải tạo cho ngay thẳng
về tri kiến cho đừng chấp sai hiểu lầm,
như vậy là tạo nên phước trí có tương
ưng với trí tuệ, tương ưng với chánh kiến.
Thi` rơ ràng chúng ta thấy
ở đây là việc chúng ta trao dồi chánh kiến đó
là một điều hết sức quan trọng, và một
điều chúng tôi nói cuối cùng ở đây thưa qúi vị,
đối với thuộc tánh tà kiến nó làm phá vỡ
đi trí tuệ chân chánh, và phá vỡ con đường
chánh đạo. Bởi vậy
khi nhận thức được điểm này thi`
người Phật tử chúng ta phải quyết tâm để
chúng ta dẹp bỏ, hay chúng ta trừ khử tà kiến.
Rất nguy hiểm
khi chúng ta khởi lên tâm tà kiến, tức là tâm tham hợp
tà, thi` lúc bấy giờ trong đời sống của
chúng ta nó có nhiều sự rối loạn. Một vị vua khi cai
trị một quốc độ mà khởi lên ác tà kiến,
đoạn kiến hay thường kiến thi` sẽ làm
không biết bao nhiêu là những điều tội lỗi
và đem lại sự đau khổ cho toàn dân. Nhưng nếu vị vua có chánh kiến
thi` vị vua đó sẽ làm được những điều
công đức, thi ân bố đức
đến cho toàn dân. Chúng ta thấy giữa những sự kiện
đó nên chúng ta biết rằng việc tu tập của
chúng ta mà chúng ta bày trừ được tà kiến, và chúng
ta có được chánh kiến đây là một điều
hết sức quan trọng.
Nói là nói như vậy thôi chứ khi chúng ta co`n là kẻ
phàm phu chưa phải là bậc hữu học Tu Đà Hườn
trở đi, thi` ác tà kiến vẫn co`n có thể sanh khởi
trong bất ky` lúc nào, chỉ có nói rằng ít hay nhiều
hơn thôi.
Ngay cả trong đời
sống tu tập của chúng ta, chúng ta là một người
đệ tử, một người hiểu biết trong
chánh pháp, thế nhưng vấn đề tà kiến chẳng
hạn như thân kiến ngă chấp, chấp về ngũ
uẩn là tôi, là ta, là tự ngă của ta v.v… điều
đó cũng vẫn co`n sự cố chấp theo tà kiến
chi pháp như vậy. Và bài học
này chúng ta đă nói về thuộc tánh tà kiến nó
tương ưng với tâm tham, nó đi chung với tham
tâm sở, lát nữa đây chúng ta sẽ được
nghe Chư Tôn Đức tri`nh bày thảo luận về vấn
đề có liên quan đến tà kiến trong đời sống
sinh hoạt hàng ngày của chúng sanh. Bây giờ đến
đây chúng tôi xin được tạm kết thúc buổi
giảng này, chúng tôi xin kính dâng phần phước này đến
Chư Tôn Đức Tăng hiện đang có mặt và xin
chia phước đức đến tất cả chư
thiện nam tín nữ trong rơom mong cho qúi vị luôn
được sự tiến hoá và thành tựu chánh tri kiến.