A Tỳ Đàm, Bài 15.4 Ngày 10 tháng 9 năm 2004
Minh
Hạnh nghe và sửa lại cho thành bản văn, cô Tu Nữ
Diệu Tịnh hiệu đính
Bài 15
Nhóm
Thuộc Tánh Bất Thiện
Sở hữu
bất thiện là những sở hữu chỉ hợp
với các tâm bất thiện, gồm có 14 sở hữu
tâm, được chia làm năm nhóm:
I
Sở hữu si phần
Phóng
Dật (Uddhacca)
TT Giác
Đẳng: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Kính
đảnh lễ Chư Tôn Đức, kính đảnh
lễ TT Trí Siêu, kính thưa qúi Phật tử. Trong bài học hôm nay
chúng ta sẽ học về tâm sở phóng dật, có thể
nói rằng hé mở nhiều cánh cửa quan trọng liên
quan đến phiền năo và pháp bất thiện,
đồng thời cũng tạo ít nhiều sự tranh
luận, ít nhiều điểm cần phải bàn thảo
về nghĩa và văn. Trước hết như
tất cả chúng ta đều biết bốn thuộc
tánh hay bốn tâm sở si phần, ở trong đó có si, vô
tàm, vô qúy, phóng dật có mặt trong tất cả các tâm
bất thiện. Khi nói
đến trạng thái phóng dật có mặt trong tất
cả các tâm bất thiện là 8 tâm tham, 2 tâm sân, 2 tâm si,
điều đó lại nói lên một y' nghĩa lớn
về trạng thái của phiền năo và trạng thái
của cảnh dục giới.
Bên cạnh đó thi` chúng ta cũng nghe nguyên nhân chính mà
người ta không trụ tâm được, hay ngay chính
tâm tán loạn lao chao là sự
không khéo tác y' lại cũng là một y' nghĩa lớn mà
lát nữa chúng ta sẽ trở lại thảo luận.
Riêng
về chữ phóng dật thi` có hai chỗ dịch khác nhau
cho hai từ vựng, và hai từ vựng này đều
đặc biệt quan trọng và hai chỗ dùng khác nhau là
do hai dịch giả cũng rất quan trọng. Trước nhất Hoà Thượng Minh
Châu thường dùng chữ phóng dật để dịch
cho chữ pama`do.tức là không có chuyên trú hay phóng túng hay
đời sống buông thả, chữ pama`do. như một
thẩm kinh lừng danh như Pháp Cú kinh và nhiều
đoạn khác. Riêng chữ Uddhacca Hoà
Thượng thường dịch là trạo cử, co`n Hoà
Thượng Tịch Sự lại ngược lại, HT
thuờng dùng chữ phóng dật để chỉ chữ
uddhacca.
Đă có một vài
lần ở trong room Diệu Pháp này qua một vài
trường hợp đặc biệt, nhất là khởi
đầu cho lớp A Ty` Đàm thi` Sư Trưởng
cũng giống như TT Trí Siêu và chúng tôi đă từng có
những trao đổi liên quan đến từ vựng
này. Hôm nay chúng ta trở
lại một lần nữa thi` qúi vị sẽ thấy
rằng chữ phóng dật, thuộc tánh phóng dật ở
đây về phương diện văn và nghĩa
đều có nhiều điểm cần phải
được mổ xẻ một cách chi tiết. Chúng ta có làm được
chuyện đó hay không thi` chuyện đó tùy thuộc vào
một yếu tố rất quan trọng sáng hôm nay là TT Trí
Siêu có nói chuyện với chúng ta được chăng,
Sư Trưởng đang có mặt ở trong rơom, TT
Trí Siêu cũng đang có mặt ở trong room. Bây giờ để thỉnh TT Trí Siêu hoan hỷ
thử mic và nếu được thi` xin tiếp tục
cho bài học hôm nay.
TT Trí Siêu: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, kính
đảnh lễ Sư Trưởng, kính đănh lễ TT
Giác Đẳng, và thân chào tất cả qúi Phật tử. Hôm nay là ngày chúng ta học môn A Ty` Đàm, trong ngày
hôm nay chúng tôi hy vọng sẽ được thuận duyên
để có thể giảng bài cho trọn vẹn. Trong những ngày qua và trong ngày hôm nay chúng tôi
hết sức là bận tâm lo nghĩ về cái vấn
đề này. Trong
thời gian sắp tới rơom chúng ta sẽ có nhiều
trở ngại, khi TT Giác Đẳng phải đi xa.
Trở
lại vấn đề trong ngày hôm nay, vừa rồi TT
Giác Đẳng đă dẫn nhập cho bài học nói
về thuộc tánh thứ tư của bốn tâm sở
bất thiện biến hành đó là tâm sở phóng dật. Tâm sở phóng dật là một danh từ
được dịch từ chữ Uddhacca, và chữ
Uddhacca này có nhiều bản dịch, và ở đây thưa
qúi vị theo bản dịch của HT Minh Châu, Ngài dịch
là phóng dật, co`n ở trong bản dịch của Ngài
Tịnh Sự có khi Ngài dịch là điệu cử, có khi
Ngài dịch là phóng dật. Chữ Uddhacca dịch là phóng dật
chúng ta nghe nó mang mán trùng với từ gọi là phóng dật
danh từ pama`da. chúng ta cũng khó có
thể xác định được. Như từ
pamajjana` là một sự tri` hoăn, một sự quảng
đăi, một sự buông thả khinh xuất thi` đây
gọi là pamado. Co`n chữ phóng dật là một ti`nh
trạng tâm bị lao chao, nó bị phóng đi, bị
rời khỏi đối tượng như vậy
chữ phóng dật hay chữ điệu cử mà chúng ta
dịch cho chữ Uddhacca nó sẽ chính xác hơn là chữ
phóng dật chúng ta đem sài pamada theo chúng tôi nghĩ như
vậy.
Chữ pamada chúng ta
dịch là sự dể duôi hay sự quởn đăi thi`
được, nhưng sài cho chữ phóng dật có
lẽ chúng ta cần phải định nghĩa lại. Và danh từ Uddhacca nó từ
ngữ căn gọi là "dhu" là chao động, rung
chuyển cộng vào chữ Chữ "ddhacca" phối
hợp với tiếp đầu ngữ U có nghĩa là tung
lên, được ví dụ cũng giống như một
đống tro mà khi bị ném một ho`n sỏi thi` bụi
nó sẽ tung lên, thi` trạng thái tung lên đó ta gọi là
Uddhacca. Hay có một ví dụ nữa nếu dịch mà
chữ dịch là điệu cử thi` trong trường
hợp này điệu cử hay trạo cử sài theo
nghĩa giống như mặt nước đang yên
lặng, cái mái chèo người ta dùng để bơi
thuyền, thi` mái chèo đó nó làm cho nước động
đậy,
chữ trạo cử ở đây cũng có
nghĩa như thế.
Bây giờ chúng ta
thử bàn qua về y' nghĩa trạng thái của tâm
trạo cử, hay phóng dật này, cái tâm sở này, co`n
những danh từ đó thi` chúng ta không cần phải
luận bàn nhiều, bởi vi` ở đây rất có
thể là chút xíu nữa chúng ta sẽ được Chư
Tôn Đức giảng giải tri`nh bày cho chúng ta nghe. Co`n bây giờ thi`
chúng tôi xin được nói qua thuộc tánh phóng dật,
hay thuộc tánh trạo cử có vai tro` như thế nào
đối với trạng thái tâm bất thiện. Ở đây thưa qúi vị
thuộc tánh phóng dật là một trong bốn thuộc tánh
biến hành có nghĩa là si, vô tàm, vô qúy, phóng dật đều là
những thứ tâm sở phối hợp với tất
cả 12 tâm bất thiện, không có thứ tâm bất
thiện nào mà vắng mặt tâm sở này. Và ở đây,
trước hết chúng ta nên ghi nhận điểm này
để chúng ta có thể nhận biết một cách rơ
ràng về vai tro` y' nghĩa của trạo cử, hay phóng
dật đă nói rằng tâm sở phóng dật là một thuộc
tánh có mặt ở trong một trong 12 thứ tâm bất
thiện, thi` chúng ta phải biết trạng thái của
phóng dật ở đây được gọi là calana
tức là không có yên lặng.
Trước
hết chúng ta nên hiểu nghĩa không yên lặng, trạng
thái không yên lặng, và chính trạng thái này tâm bất
thiện không bao giờ nó có được một
đặc tánh gọi là passaddhi như là tâm tịnh
hảo. Tâm tịnh hảo
thi` nó có hai trạng thái mà chúng ta gọi là ka`yapassaddhi và
cittapassddhi là tịnh thân và tâm tịnh nghiệp,c̣n tính bất thiện th́ nó có trạng thái
hay có thuộc tánh phóng dật phối hợp cho nên mới
bị ti`nh trạng đó, không có sự yên lặng, luôn luôn
có sự xao động. Chúng ta chỉ nói đến sự xao động
thôi, chứ chúng ta chưa nói đến cái vấn
đề phóng tâm đi nơi khác.
Ở đây thưa
qúi vị cũng như bao nhiêu trường hợp khác,
chúng ta đă học về các tâm sở thi` chúng ta nên ghi
nhận hai y' nghĩa, một y' nghĩa về thuộc tánh,
y' nghĩa về thực tính, thực tính của pháp,
của tâm sở đó nó có một y' nghĩa nguyên sơ khi
nó phối hợp với tâm, y' nghĩa đó như thế
nào là một điểm mà chúng ta cần phải ghi
nhận. Thứ hai nữa là
y' nghĩa chúng ta hiểu rộng hay để chúng ta
hiểu được một cái từ Phật học,
danh từ đó hiểu theo nghĩa
chuyên môn là khác, mà chúng ta hiểu theo nghĩa của phổ
thông thi` khác. Nghĩa phổ thông tức là nghĩa trong kinh
luận hay trong đời thường tu tập chúng ta
sử dụng đến, co`n cái nghĩa chuyên môn là chúng ta
đang nói về thuộc tánh này là một phần tử,
hay một chất liệu tạo nên một thứ tâm
đó, do vậy cho nên đối với tâm sở bất
thiện hay tâm sở tợ tha cũng như thế, chúng
ta phải hiểu.
Bây
giờ khi chúng ta nói đến cái tâm sở phóng dật
ở đây, trước hết chúng ta chỉ nên hiểu
tâm sở phóng dật trạng thái của nó là không yên
lặng, nó khiến cho các pháp đồng sanh không tịnh
lặng. Trước
nhất chúng ta phải hiểu nghĩa không tịnh
lặng là trạng thái của tâm sở phóng dật. Và thứ hai chúng ta nói đến phận
sự của nó, phận sự của tâm sở phóng
dật khiến cho chúng ta không chú y' một điều là
chạy nhảy sang đối tượng khác chúng ta khoan
nói đến chỗ đó.
Cũng như trường hợp khi mọi
người bước xuống một chiếc xuồng,
vi` chiếc xuồng nó nhỏ mà 5, 3 người
bước lên thi` khiến cho chiếc xuồng đó
bị chồng chềnh không có vững vàng, y' nghĩa
đó là khác, khi chúng ta nói đến trường hợp
chúng ta thay đổi, chúng ta bước sang chiếc
xuồng này, chúng ta bước sang chiếc xuồng khác,
chúng ta ngồi yên không thay đổi, hay chúng ta thay
đổi. Khi chúng ta ngồi
trên thuyền mà chúng ta thay đổi chỗ ngồi, có khi
chúng ta ở mui ghe, có khi ngồi ở giữa lo`ng ghe, hay
chúng ta ngồi ở phía sau lái ghe, chúng ta cứ thay
đổi y chỉ như thế đó là nó khác với
trường hợp mà chúng ta ngồi một chỗ mà chúng
ta lắc lư.
Cái trạng thái
lắc lư của chúng ta trên một
chiếc ghe nhỏ nó cũng làm ảnh hưởng
đến sự cân bằng của chiếc xuồng làm
cho chiếc xuồng đó nó bị lao chao. Cái trạng thái
của nó là không yên lặng rồi
cái phận sự của nó là khiến cho tâm bắt
cảnh không vững vàng, cũng một cảnh đó
nhưng nó bị chao động, cũng giống như
một chỗ ngồi trên một chiếc xuồng,
ngồi một chỗ nhưng thân hi`nh lắc lư có khi
ngă tới có khi ngă lui khiến cho chiếc xuồng nó
bị chồng chềnh, bởi vậy cho nên ở đây
thưa qúi vị khi mà chúng ta nói như vậy thi` chúng ta
mới hiểu được rằng tại sao mỗi
một thứ tâm tham hay tâm sân khi nó bắt cảnh tất
nhiên là nó phải chong ngay vào cảnh đó, do cái sát na
ekaggata` , do tâm sở ekaggata` tức là nhất hành.
Nhưng trạng thái nhất hành
này khi nó đồng sanh với Uddhacca, tức là tâm
sở phóng dật thi` trạng thái nhất hành gồm các
tâm sở khác, nó có tánh cách gọi là bị lao chao
trước đối tượng không vững vàng khi
gặp cảnh như thế đó chỉ là công việc
sau đó, cái công việc trở thành thường cận y
duyên của tâm phóng dật đă quen. Thí dụ như bây giờ một
người quen khởi lên tâm bất thiện, tâm bắt
cảnh cứ lao chao măi như thế
từ ngày này sang ngày khác.
Phần lớn là tâm bất thiện sanh khởi
nơi người ấy do đó tâm người này không có
sự định tỉnh, và vi` rằng không có sự
định tỉnh cho nên về sau người này hay
bị phóng tâm, hay nghĩ ngợi mông lung thi` bắt
đầu là cái hậu quả, chúng ta gọi hậu
quả của thuột tánh tâm sở, nhưng hậu
quả của thuộc tánh tâm sở là phóng dật, nó
phối hợp với tâm bất thiện, do đó chúng ta
nên để y' một chút.
Kính
thưa qúi vị lại thêm một khía cạnh khác
để giúp cho chúng ta có thể hiểu được
trạng thái của tâm sở, hiểu được y'
nghĩa của tâm sở bất thiện phóng dật đó
là chúng ta nói đến sự hiện bày, cái sự hiện
bày hay sự thành tựu của tâm sở phóng dật là
khiến cho tâm động đậy, là một trạng
thái động đậy.
Chỉ nói đến trạng thái động
đậy thôi, giống như một người họ
yếu sau khi mới hết bịnh, hoặc đang trong
lúc họ bị bịnh, lúc bấy giờ họ
đứng không vững, họ đứng, họ ngă tới,
họ ngă lui, hoặc chân của họ rung rảy như
muốn qụy xuống, thi` trong trường hợp
đó chúng ta thấy trạng thái tâm phóng dật, trạng
thái tâm bất thiện bị tâm sở phóng dật hiện
bày ra cái ti`nh trạng đó cũng như vậy. Mặc dù mỗi một thứ
tâm sanh lên đều bắt cảnh, mà chúng ta biết
rằng tâm sanh lên mỗi một sát na tâm
chỉ bắt một cảnh thôi chứ không thể
bắt hai cảnh được. Nếu chúng ta nói
rằng trong khi từng sát na,
thi` không thể nào tâm sở phóng dật nó phối hợp
trong sát na tâm này lại đồng sanh với nó, ở
đây chúng ta cần phải lưu y' điểm đó, cho
nên chúng ta chỉ nên hiểu là sự phóng dật là
khiến cho tâm bị chao động đối với
một đối tượng đó, bị chao
động có nghĩa là nó không có sự khắn khích, nó
không có sự chú mục, ở đây chúng ta phải chú y'
như thế.
Bây
giờ chúng ta lại nói một khía cạnh khác, là chúng ta
nói đến nhân cần thiết để có
được tâm sở phóng dật, nhân cần thiết
ở đây theo trong chú giải này
at.t.hakathà đề cập đến chỗ này là
ayonisomanasika`ra tức là sự không khéo tác y'. Đây cũng là
một vấn đề chúng ta cần phải khéo suy xét
lại, chúng ta cần phải minh định lại. Kính bạch qúi Ngài, thưa qúi
vị, tại sao chúng tôi lại nói điểm đó, không
phải là sai, nhưng có điều bởi vi` khi chúng ta nói
đến ti`nh trạng phóng dật không an trú với chánh
niệm, thi` chúng ta mới nói rằng nhân cần thiết để
nhân cận, để sanh ra ti`nh trạng bị phóng
dật lao chao tán tâm như là không khéo tác y' thi`
được. Nhưng
nếu chúng ta định nghĩa trạng thái phóng dật
như một khi nói đến vấn đề là nhân
cần của nó, bởi tại sao, bởi vi` mỗi
một sát na tâm lên, mỗi một sát na tâm sanh khi có tâm
sở phóng dật thi` cái chuyện đó là cái chuyện nó
thuộc về cái quy luật mà chúng ta gọi là cittacalana là
để cho tâm bị loạn động, không vững trú
chỉ vậy thôi.
Co`n
nói đến đời sống tu tập của chúng ta
trong đời thường, thi` ở đây tại sao có
người có thể ngồi thiền và tâm của họ
tập trú trên đề mục lâu được, an trú lâu được, an trú vững vàng trên
đề mục đó là do nơi họ có chánh niệm
vững vàng. Co`n một
người thi` khi họ ngồi lại họ chỉ
mới niệm hơi thở ra, hơi thở vô, họ
chỉ niệm hơi thở ra hơi thở vô, mới
chỉ niệm một vài hơi thở là bắt
đầu tư tưởng của họ lại nghĩ
ngợi ở nơi khác, lại bắt lấy cảnh
khác, ít khi nào họ tập trú được thi` trong
trường hợp này thưa qúi vị chúng ta lại
đề cập đến là do nơi người đó
thường ngày không có sự khéo tác y'. Khéo tác y' ở
đây chúng ta định nghĩa chữ khéo tác y' có
nghĩa là dùng trí tuệ để suy xét một sự
việc, hay suy xét trên đối tượng đó nhờ
cái sự khéo tác y' như vậy tâm mới tập trú
được.
Bây giờ giả sử như trường
hợp như thế này, khi chúng ta đọc quyển sách,
chúng ta không hiểu quyển sách đó nói gi`, thi` như
vậy chúng ta không thâu nhập được gi`. Co`n
trong khi nếu chúng ta đọc môt quyển sách, chúng ta
hiểu được quyển sách đó bằng trí
tuệ thi` nó sẽ lôi cuốn làm cho chúng ta kéo dài
được thời gian trú mục vào trong trang sách. Về y' nghĩa này rất là quan
trọng, chúng ta dùng thí dụ đó để chúng ta có
thể phân biệt được cũng đồng
thời dùng danh từ phóng dật, nhưng phóng dật theo nghĩa của kinh tạng hay nghĩa tu
tập. Cái
nghĩa pháp chướng ngại cho việc tu tập là
khác, co`n phóng dật trong tâm bất thiện nó là một y'
nghĩa đơn thuần.
Một y' nghĩa đơn thuần chúng ta
đừng nên hiểu rộng quá, nếu chúng ta hiểu
rộng quá thi` nó sẽ không co`n là một thuộc tánh chi tiết
ở trong tâm thức, ở đây là sự không khéo tác y' là
sự thường tu tập. Nhưng không nhất thiết phải
như vậy, khi chúng ta chỉ nói đến cái nghĩa
đơn thuần về thuộc tánh tâm sở phóng
dật ,đó là những điều mà chúng tôi tri`nh bày
về y' nghĩa của tâm sở phóng dật.
Bây
giờ chúng ta lại bước sang một cái vấn
đề khác, chúng ta cũng nên nói thoát thêm một chút trong
cái vấn đề sự ảnh hưởng của phóng
dật ở trong. Như chúng ta đă biết giữa trạng thái
tâm sân, tâm phóng dật và giữa trạng thái tâm bất
thiện và trạng thái tâm thiện, chúng ta chỉ nói hai
trạng thái đó thôi, chớ tâm tịnh hảo thi` nó bao
gồm cả quả và tố chúng ta không nói ở đây. Giữa thiện và bất
thiện hai ti`nh trạng tâm sân này nó có sự khác nhau, một
đằng thi` xấu, một đằng thi` ảnh
hưởng tốt. Tâm thiện thi` ảnh hưởng tốt, tâm bất
thiện thi` ảnh hưởng xấu, cái xấu và cái
tốt như thế nào, có nhiều vấn đề
để chúng ta nói xấu và tốt giữa tâm bất
thiện và tâm thiện.
Thi` ở đây tâm sở phóng dật là một khía
cạnh, là một tính chất
khiến cho tâm bất thiện không bao giờ có sự
vững vàng, hay vắng lặng ở trong tâm bất
thiện được, không bao giờ có sự yên
lặng.
Và
chính vi` tính chất này, nếu như một người
đă thường xuyên khởi lên tâm bất thiện trong
nhiều đời nhiều kiếp, hoặc trong nhiều
thời gian suốt cả ngày, chúng ta gọi là a`sevana`, với
tâm tư từng sát na tâm bất thiện sanh khởi nó
đă trở thành phóng dật cho do`ng tư tưởng
bấn loạn, và chính vi` y' nghĩa đó chúng ta bắt tu
tập ở nguồn gốc của nó. Một người sở dĩ
tâm của họ hay bay nhảy, hay phóng túng, hay phan duyên theo
trần cảnh không thể tập trú được trên
đề mục, là chính do nơi người đó
thường xuyên sanh khởi tâm bất thiện, mà trong tâm
bất thiện mỗi thứ đều có đặc tính
tâm sở phóng dật và như vậy tạo thành thói quen.
Được
gọi là dơ khi chúng ta đi ra đường từng
hạt bụi nhỏ thôi nó bám vào da của chúng ta, tạo
nên dơ bẩn chứ không phải vi` bụi, chứ không
phải bụi nó to bằng miếng thuốc dán, nó dán trên
da thịt của chúng ta, không phải như vậy,
nhưng có điều vi` nó bám nhiều qúa do vậy cho nên
trở thành cấu uế, trở thành dơ bẩn cũng
như thế nào, thi` một người gọi là có
đời sống phóng dật nghĩa là tâm loạn
động, tâm lao chao, tâm phan duyên theo trần cảnh
tại vi` trong đời sống của họ
thường xuyên sanh khởi trạng thái tâm bất
thiện, mà trong mỗi thứ trạng thái tâm bất
thiện đều có thuộc tánh phóng dật cả.
Chính
vi` vậy cho nên một người tu tập, nếu
như họ bắt đầu chuyển hướng
lại để làm cho tâm định tỉnh, thi`
bước đầu nhân cần thiết quan trọng
nhất là phải làm sao khéo tác y', nghĩa là trong mỗi
mỗi việc, mỗi một sự kiện, một
vấn đề họ đều phải có một trí
tuệ sanh khởi để mà suy nghĩ về vấn
đề đó, suy nghĩ về sự kiện đó. Chính do vi` suy
nghĩ về sự kiện đó khiến cho tâm của
họ tập trú được, tâm thiện của họ
phát sanh lên để có trí tuệ mà suy tư
được, và buổi đầu thi` hơi khó một
chút.
Thí dụ như bây giờ một
đứa bé từ nhỏ tới lớn nó hay bị phóng
dật, có nghĩa là tâm của nó hay bay nhảy ở bên
ngoài, chạy đi chơi cho nên nó không bao giờ chịu
dán mắt vào trong quyển sách để mà đọc,
để mà hiểu, để mà tạo kiến
thức. Cha mẹ của nó thấy
như vậy cho nên mới khuyên nó những điều
lợi ích có ở trong quyển sách, những điều
hay có trong quyển sách con ráng đọc đi, buổi
đầu thi` con không say mê được nhiều trang
sách thi` đọc một trang cho hiểu thôi thi` cũng
được rồi đi chơi, qua ngày khác đọc
hai trang ba trang cứ làm như thế đó một thời
gian sau, đứa bé đó trở lên trú mục vào công
việc đọc sách, nó say sưa đọc sách bởi
vi` nó đă thấy được điều lợi ích
của việc đọc sách.
Thọat
đầu đời sống của chúng ta, nếu chúng ta
cứ để cho tâm thả lỏng, cứ tâm bất
thiện sanh khởi hoài, sanh khởi liên miên như vậy,
thi` lúc đó trạng thái phóng dật hay trạng thái
trạo cử của bất thiện biến hành, nó đă
huân tập nhiều lần giống như bụi đóng,
nó sẽ khiến cho tâm của chúng ta không bao giờ
tập trú được trên đề mục. Đến sau này khi chúng ta bắt
đầu có chuyển hướng sang việc tu thiền
hay chúng ta ti`m hiểu nghĩa ly' kinh điển, chúng ta
bắt đầu đọc kinh sách, thi` thoạt
đầu chúng ta hơi khó, tâm dễ bị phóng
lắm. Nhưng chúng ta hăy
tập cho mi`nh làm sao mà chúng ta có trí
tuệ tác y', tác y' đến điều lợi ích của
pháp hay chúng ta tác y' đến tính chất của đề
mục, và chúng ta tác y' đến cái niềm an lạc, khi
chúng ta an trú trong một đề mục v.v.... Chúng ta tác y'
thường xuyên như vậy, lúc ban đầu chúng ta tác
y' để cho tâm ưa thích rồi sau dần dần có
thói quen thi` lúc bấy giờ chúng ta sẽ an trú tâm
được, chúng ta bới đi sự phóng dật cho
đến khi nào đắc chứng được
thiền định, thi` lúc bấy giờ thưa qúi
vị phóng dật nó trong vai tro` gọi là trạo hối
cái gọi là kukkuccani`varan.a lúc đó an trú thiền thi` chính
do chi lạc của thiền gọi là somanassajha`nan'ga nó
sẽ đối trị được pháp triền cái
này, là nó đối trị được trạo hối
cái.
Ở
đây thưa qúi vị, nếu như chúng ta chỉ
học về y' nghĩa của trạo cử, hay tâm sở phóng dật theo trong
luận tạng A Ty` Đàm Vi Diệu Pháp, mà chúng ta không
hiểu rộng hơn nữa xuyên qua ly' kinh điển,
hay chúng ta không đem áp dụng trong đời sống tu
tập của chúng ta, thi` rất có thể là chúng ta sẽ
cảm thấy rằng học như thế này, học
để biết như vậy trong mỗi tâm bất
thiện có phóng dật phối hợp như vậy,
họ biết như vậy thi` có lợi ích gi` cho việc
tu tập. Cho nên ở đây
để tránh được ti`nh trạng hiểu lầm
như vậy, chúng tôi mới bắt đầu chuyển
hướng tri`nh bày sang một y' nghĩa rộng hơn,
chính vi` nguồn gốc của tâm sở phóng dật này khi
nó phối hợp được với tất cả tâm
bất thiện, do đó nó
tạo cho trạng thái tâm bất thiện bao giờ
biết cảnh cũng là biết loạt một cảnh
trong sự yên lặng của các pháp đồng sanh, lâu
dần sẽ trở thành một tập quán, trở thành
một thói quen là tư tưởng của người
ấy có chiều hướng phóng dật đem
đến sự trở ngại cho việc tu tiến,
rồi bấy giờ suy nghĩ đến cái nhân cần
thiết để mà phát sanh lên chánh niệm, thi` chúng ta
hiểu ngược lại nhân cần thiết để
làm cho tâm bị phóng dật đó là không khéo tác y', thi` khi
muốn cho tâm định tỉnh chúng ta phải có sự
khéo tác y'. Đó là những
điều chúng tôi xin được tri`nh
bày ở đây trong buổi giảng ngày hôm nay. Nam Mô
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật