Ngày 13 tháng 08 năm 2004

Minh Hạnh biên soạn & Cô Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính

Bài 14

Những Thuộc Tánh Tợ Tha

 

Sở Hữu Biệt Cảnh (Pakinnakacetasika)

Tứ (Vicàra)

 

II. Sở Hữu Biệt Cảnh (Pakinnakacetasika)

Sở hữu biệt cảnh là những sở hữu tâm chỉ có thể hợp với một số tâm nào đó mà thôi (không xuất hiện ở những tâm quả Dục giới vô nhân nhất là ở Ngũ song thức). Sở hữu biệt cảnh gồm có 6 sở hữu sau:

ooOoo

 

TT Trí Siêu: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, kính bạch Chư Tôn Đức, Kính thưa qúi Phật tử. Bài học ngày hôm nay học về tứ tâm sở là tâm sở thứ hai trong 6 tâm sở đó.  Tứ tâm sở có phận sự giúp cho tâm và các tâm sở đồng sanh với nó dán áp liên tục, giống như là một con ong,        nó cũng đóng vai tro` khá quan trọng nó giúp cho tâm và tâm sở đồng sanh dán áp liên tục trên cảnh hay đối tượng. Cảnh ở đây chúng ta nói đến cảnh sắc, cảnh thinh, cảnh khí, cảnh vị, cảnh xúc, cảnh pháp. 

 

Một điều chúng ta cũng cần nên lưu y' rằng khi chúng ta cảm nhận sắc cảnh thinh, cảnh khí, cảnh vị, cảnh xúc bằng thứ tâm nhăn thức, nhĩ thức, thiệt thức, thân thức, thi` những tâm đó không có những tâm sở phối hợp, nó không có tầm hay tứ tâm sở phối hợp một trạng thái cực xúc năng động. Cho nên tâm nhăn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, những tâm đó có một cơ năng làm việc như một cơ năng máy móc dán áp hay hướng tâm. Chỉ khi nào những tâm lộ y' môn sanh nối tiếp với lộ nhăn, lộ nhĩ, lộ tỷ, lộ thiệt, lộ thân, hay chứng ngay những tâm y' giới và y' thức giới ở trong lộ tâm nhăn môn, nhĩ môn, tỷ môn, thiệt môn, thân môn, thi` lúc đó những tâm này có được tầm tâm sở, và tứ tâm sở như một sự kiện có sự trang bị để mới biết cảnh được. 

 

Thí dụ như bây giờ khi chúng ta đến một công sở nào đó, nếu như người gác cổng thi` người đó khỏi cần xuất tri`nh giấy tờ, nhưng những người khác đi đến công sở đó thi` phải có đầy đủ giấy tờ mới có thể xuất nhập được trong công sở  như thế nào thi` ở đây chúng ta cũng biết đối với tâm nhăn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, là những tâm trực tiếp bắt cảnh sắc với xúc do đó cho nên phận sự của nó như vậy, phận sự của nó là thấy, nghe, ngửi, nếm, và đụng. 

 

Phận sự của ngũ song thức như thế cho nên nó không cần phải có tầm hay có tứ, nó không cần phải trang bị hai thứ tâm sở này, nhưng những tâm khác phận sự của nó vi` nó biết có thể là cảnh sắc, cảnh khí, cảnh vị, cảnh xúc, cảnh pháp v.v... cho nên mỗi lần nó sanh khởi để bắt cảnh nào, thi` nó phải có tầm để giúp cho hướng tâm đến cảnh đó, nó phải có tứ để giúp cho  tâm đó và các tâm sở đồng sanh, bám sát vào cảnh mà hiện tại nó đang có phận sự cần phải biết điều này quá rơ rang.  Thi` ở đây chúng ta khi học về.tứ tâm sở, trước hết chúng ta cũng nên có một cái nhi`n, có sự nhận hiểu trong tướng nghĩa thực tính đơn giản, để chúng ta có thể nhận thức được vai tro` của tứ tâm sở, khi nó sanh khởi nó có những phận sự gi`, những chức năng gi`, khi bàn đến y' nghĩa này.

 

Giờ chúng ta chỉ nói một cách đơn thuần theo nghĩa thực tính mà thôi, ở đây thưa qúi vị đối với tâm sở tứ vicàra, chữ vicàra ở đây có nghĩa là vicàrat́ti = vicàra, tức là nó đi vo`ng quanh hay bám sát.  Cái nghĩa đi vo`ng quanh hay đi bám sát, thi` ở đây tứ tâm sở có một trách nhiệm gọi là bám sát, thi` đương nhiên chúng ta phải hiểu nó bám sát vào cảnh.  Tuy chúng ta nói như vậy là chúng ta định nghĩa cho tứ, và phân biệt giữa trạng thái y' giới và y' thức giới có được tứ tâm sở phối hợp.  Nhưng ngũ song thức không có tứ tâm sở phối hợp, chúng ta định nghĩa như thế.

 

Ở đây chúng ta nói đến các tâm thiền chẳng hạn, như những tâm tam thiền, tứ thiền, và những tâm ngũ thiền. Tâm tam thiền và tứ thiền không có tứ tâm sở phối hợp, điều này có nghĩa là mặt dù các tâm thiền vẫn là những loại tâm y' thức giới, nhưng những tâm thiền đó thuần thục ngay từ sơ thiền, nhị thiền, cho nên đến tam thiền trở đi thi` tâm của vị hành giả lúc đó đă không cần có tứ phối hợp để bám sát theo cảnh, nó đă có sự gắn bó đối với cảnh tập trú vào cảnh một cách chắc chắn. 

 

Do vậy ở đây tứ tâm sở đó là trường hợp khác, co`n trường hợp những tâm thiền cao như tam thiền, tứ thiền, ngũ thiền cũng không có tứ tâm sở, ở đây cần phải hiểu một y' nghĩa khác, do vậy cho nên tứ tâm sở nó nằm ở trong thành phần gọi là thuộc tánh tợ tha mà biệt cảnh.  Tợ tha vi` rằng tứ tâm sở khi nó hiện trong tâm bất thiện, ở trong tâm nó mang tánh chất là tâm vô kư, được gọi là biệt cảnh bởi vi` tứ tâm sở vẫn có khi nó hiệp được với một số tâm, và có khi thi` nó không hiệp được một số tâm, như nó không hợp với tâm ngũ song thức   cũng phải nên có sự chú y' như thế.

 

Chức năng tâm dục giới và tứ tâm sở ở trong các tâm, trên phương diện tâm dục giới thi` tứ tâm sở chỉ là giúp cho tâm này hướng tâm bám sát một cách liên tục vào cảnh hay vào đối tượng, chỉ vậy thôi nó không có một sức mạnh gi`.  Tuy nhiên nếu tứ tâm sở nó được phối hợp như là thiền hoặc nhị thiền, lúc bấy giờ nó trở thành một chi thiền thi` nó có một sức mạnh, và sức mạnh của chi thiền đó có thể áp chế được một loại tâm mà chúng ta gọi là hoài nghi cái vicikicchàńvarana.  Khi không có hoài nghi cái xuất hiện, hoài nghi cái tức là trạng thái nghi ngờ, một trạng thái phân vân không có quyết tính.  Tâm thiền đó xem như nó có tánh chất miễn nhiễm về hoài nghi.  Bởi do chức năng, cái tánh năng bám sát vào đối tượng,   chúng ta cũng nên có sự quan tâm.

 

Nếu chúng ta nói trên phương diện kinh tạng, thi` ở đây đối với tâm để mà nó bám sát cảnh sắc, cảnh thinh, cảnh khí, cảnh vị, cảnh xúc, cảnh pháp, cho nên mới gọi có 6 loại tầm và có 6 loại tứ.  Sáu loại tứ ở đây tức là sắc tứ, thinh tứ, khí tứ, vị tứ, xúc tứ và pháp tứ, những danh từ được sử dụng như thế có thể làm cho chúng ta có một sự khó hiểu khi những từ này dùng quá chuyên môn.   

 

Tuy vậy ở đây không có gi` làm cho chúng ta khó hiểu khi chúng ta hiểu được nghĩa tứ là như thế nào.  Chữ tứ là một danh từ Hán Việt dịch từ chữ vicàra và chữ vicàra như chúng tôi đă nói, chúng tôi đă tri`nh bày với qúi vị là một trạng thái đeo sát đối tượng.  Tâm thiện hay tâm bất thiện dục giới có thể đeo sát đối tượng về cảnh sắc, hay thuộc đối tượng thuộc về cảnh thinh, đối tượng thuộc về cảnh khí hơi mùi, đối tượng thuộc về cảnh vị, đối tượng cảnh xúc và đối tượng thuộc cảnh pháp.  Như vậy khi tâm thiện, tâm bất thiện đeo sát đối tượng như thế nên mới gọi là sắc tứ, thinh tứ v.v...

 

Mặc dù dùng danh từ chúng ta nghe qua chúng ta khó có thể nhận được, nhưng đối với một y' nghĩa được tri`nh bày, chúng ta sẽ thấy rất đơn giản, khi tâm thiện hay tâm bất thiện trong đời sống hàng ngày hướng ti`m đến cảnh sắc, cảnh thinh v.v... thi` như vậy gọi là sắc tầm, thinh tầm.  Co`n khi  đă ti`m đến cảnh rồi, đă nghĩ đến cảnh rồi, lúc bấy giờ có sự bám sát cảnh sắc hay cảnh thinh đó, thi` như vậy gọi là sắc tứ, thinh tứ v.v... Điều đó cũng không có gi` trở ngại cho chúng ta, vấn đề này chúng ta cần phải nhận thức một cách rơ ràng là có những trường hợp không có tầm, không có tứ phối hợp.  Sở dĩ chúng tôi nói như vậy là tại vi` tầm tứ luôn luôn là một chi thiền, mà gần như là chúng ta có thói quen dùng từ để chúng ta ám chỉ một cặp như thế đó, cũng như khi chúng ta nói đến tàm qúi. 

 

Do vậy mặc dầu bài học ngày hôm nay chúng ta nói về tứ nhưng ở đây chúng tôi lại là nói chung như vậy, bởi vi` hai trạng thái này, hai thuộc tánh này, nó có vai tro` gần gần giống nhau, chỉ khác nhau ở chỗ về y' nghĩa mà thôi.  Co`n phận sự của nó, cái hoạt dụng của nó đối với đối tượng, đối với cảnh thi` chúng ta thấy cũng gần gần giống nhau.  Như vậy  khi chúng ta nói về tầm, hay tứ, cũng nên biết được rằng khi sinh hoạt hàng ngày trong vấn đề thân hành, khẩu hành thi` nó tạo nên nghiệp.  Bởi vi` thân hành động của chúng ta ở đây tức là được nói do tầm tứ, tức là sự ti`m kiếm, lời nói đây cũng là một khẩu hành.

 

Tuy nhiên để cho chúng ta thay đổi không khí một chút, xin đề nghị để cung thỉnh Chư Tôn Đức bàn luận về vấn đề này, trong đời sống tu tập của chúng ta thế nào, nếu chúng ta khéo triển khai, chúng ta khéo phát huy đặc tánh chức năng của tầm và tứ, thi` như vậy trong đời sống tu tập của chúng ta nó cũng có nhiều điều thuận lợi.  Thực ra  khi chúng ta nói đến những tư duy, những sự suy nghĩ hoặc sự suy xét, chúng ta nói xong chúng ta cứ ngỡ rằng tâm tư duy suy nghĩ của chúng ta không đúng, đó là đúng hoàn toàn, nhưng có điều khi  chúng ta học Vi Diệu Pháp, chúng ta biết rằng tâm sở nào giúp cho tâm tư duy suy nghĩ trên đối tượng được, thi` tâm nào đó trong cái cách mà chúng ta suy tư trên cảnh sắc cảnh thinh v.v... thi` tâm hướng đến  bối cảnh sắc hoặc tư tâm sở sử ly' đối với cảnh này được thi` tất cả đều là do tầm và do tứ tâm sở.

 

Tầm và tứ tâm sở cũng giống như vai tro` của người hướng đạo một đoàn người, dẫn đường hay là người điềm chỉ cho tâm đến cảnh và nó bám sát cảnh rồi những chuyện co`n lại là phận sự của .... 

 

Thật ra với một người có thể học Vi Diệu Pháp, có duyên đối với Vi Diệu Pháp, chúng ta học nhanh thi` ở đây tầm và tứ không cần phải nói nhiều, chúng ta cũng có thể hiểu được.  Khi chúng tôi dạy Vi Diệu Pháp ở trong lớp học cho Chư Tăng hay cho Phật tử, thi` không phải chúng tôi dạy từng thứ tâm sở trong một buổi, bởi vi` trong một buổi hai giờ đồng hồ dạy như vậy thi` không biết chừng nào mà có thể xong được.  Chúng tôi nghĩ rằng lớp Vi Diệu Pháp của chúng ta bây giờ sở dĩ chúng ta học theo cách cứ mỗi ngày, mỗi buổi học chúng ta chỉ bàn luận về một khía cạnh của một thuộc tánh thôi, trường hợp này bởi phương tiện học của chúng ta không phải ở trường lớp, không phải là vào nghe ở bên đây nói và bên kia cả nửa vo`ng trái đất mà chúng ta lắng nghe như vậy, trong trường hợp đó có thể làm cho chúng ta khó có thể nhận thức nếu như chúng ta học lướt qua, cho nên buộc lo`ng chúng ta phải học từng thứ một thi` lúc đó chúng ta khó mà quên được.

 

Tuy nhiên nếu chúng ta học theo cách này với một chi pháp mà chúng ta học một buổi học như vậy, thi` chúng tôi e rằng nó sẽ kéo dài thời gian rất lâu chúng ta mới có thể học hết và học hiểu.  Thưa qúi vị sẽ có người họ hỏi rằng khi chúng ta học về Vi Diệu Pháp, chúng ta bàn đến những thuộc tánh này nó có tác dụng gi` cho việc chúng ta hiểu được giáo pháp gi`, cho chúng ta áp dụng để thực hành trong đời sống tu tập của chúng ta.  Người ta sẽ thắc mắc như vậy, điều mà họ thắc mắc nghi vấn là hữu lư chứ không phải là vô ly'.  Rơ ràng khi chúng ta ngồi vào đây để nghe về những trạng thái đó như một sự thuyết tri`nh, thi` chúng ta nghe như vậy chúng ta sẽ không nhận thức, chúng ta biết được y' nghĩa, nhưng chúng ta không nhận ra rằng khi chúng ta học về cái này, bàn về cái kia để làm gi`.

 

 Chính điểm đó mà chúng tôi muốn nói với qúi vị khi chúng ta học từng thứ một, nghe sự giải thích của Chư Tôn Đức có liên quan đến kinh tập, thí dụ như bây giờ khi chúng ta hiểu được trong đời sống tu tập của chúng ta, là chúng ta điều chỉnh về thân hành, khẩu hành, và y' hành, ba hành đó phải được nằm trong một phạm trù gọi là thiện hạnh  sucarita  nếu như ba hành này mà rơi vào ti`nh trạng ducarita tức là ác hành, một  sự kiện làm chúng ta thối thất trong việc tu tập.  Với thân hành, khẩu hành và y' hành, nếu như khi chúng ta có tư tưởng, chúng ta suy nghĩ về một việc gi` đó, và có ảnh hưởng đến ti`nh trạng thái tâm sở tứ, nghĩa là dán chặt tâm vào cảnh, để rồi từ đó chúng ta sử trí với một người tu tập khi họ nói cái gi` đó, mà họ cố ti`m những ngôn ngữ lời nói để họ phát ngôn, thi` với lời nói với ngôn ngữ đó mà ti`m thấy được, ti`m kiếm lời được là do ảnh hưởng vào tầm vào tứ trong thiện pháp, thi` quả thật đây là một việc đưa đến cho chúng ta một trạng thái tốt đẹp. 

 

Cũng như chúng ta khi nhắc đến sắc tứ, thinh tứ, khí tứ, vị tứ, xúc tứ và pháp tứ cũng đồng thời là sự bám sát vào cảnh, nhưng bám sát với tâm thiện để mà bám sát vào các cảnh này, thi` đó là một điều tốt.  Co`n nếu như sự bám sát vào cảnh chỉ là bằng cách tứ hiệp với tâm bất thiện thi` đây là một điều hết sức nguy hiểm cho chúng ta, chúng ta so sánh giữa hai trạng thái đó, thi` ít có đề cập đến vấn đề đó, về những pháp đă thành tựu bên ngoài như v.v... đối đến chừng đó thôi và chúng ta không hiểu tại sao lại nói như vậy, đến khi chúng ta học Vi Diệu Pháp thi` lúc bấy giờ chúng ta mới thấy rằng trạng thái pháp được như thế có một vấn đề giúp cho chúng ta nhận thức được mỗi một pháp, và nếu chức năng đó biết cách triển khai thi` chức năng đó sẽ trở lên thành một tâm lực một sức mạnh và hùng hậu.

 

Ở đây khi chúng ta nói đến những khả năng thiện pháp chẳng hạn, như khi chúng ta nói đến chi thiền thi` chúng ta phải biết đề cập đến chi thiền tầm, chi thiền tứ, chi thiền hỷ, chi thiền lạc, chi thiền định, hoặc chi thiền xả, thi` nó có giá trị như thế nào thi` chúng ta dựa vào đó mà chúng ta biết được y' nghĩa của tầm mà nó chỉ đơn thuần biết cảnh được nó phải nhờ có những thuộc tánh  tợ tha để giúp cho tâm hoạt động được.  Bởi vậy cho nên khi chúng ta học Vi Diệu Pháp kỹ lưỡng, chúng ta thấy rơ mỗi tâm nào sanh khởi nó đều có những thuộc tánh, những thiện pháp nếu như chúng ta khéo triển khai chúng ta sẽ có tánh thuộc về những tâm sở, từ đó chúng ta có thể phát triển khía cạnh này để cho lớn mạnh thêm nó không có gi` lạ cả.  Khi chúng ta nói đến tầm thuộc về tư duy có thể là chánh tư duy hay tà tư duy, tứ cũng vậy là hai thứ thuộc tánh có vai tro` có chức năng là giúp cho tâm, đem được tâm đến cảnh. 

 

Đời sống tu tập luôn luôn lúc nào chúng ta cũng hướng đến một loại chánh tư duy, thứ tâm ở trong đó nó đă có sẵn, nó bám sát trong cảnh đó thi` chúng ta đă có là tư duy, và bây giờ loại tư duy này nó vẫn co`n như không đi chung với thiện, thi` như vậy nó sẽ không thiện, do vậy cho nên có vai tro` để giúp cho tâm , chúng ta cũng phải nói thêm là song song với tầm và tứ phải có những tâm sở tịnh hảo và chính những tâm sở tịnh hảo đó khi nó đi chung với tầm và tứ nó sẽ khiến cho tầm tứ trở lên vững mạnh.  Ở đây thưa qúi vị, khi chúng ta học về cái y' nghĩa này chúng ta phải cố gắng làm sao cho chúng ta hiểu loại tư duy này nó có tác dụng giá trị nào, nhưng khi chúng ta học thật thi` chúng ta sẽ từ đó để  chúng ta có thể nắm biết được những yếu tố của thiện pháp nó vẫn có lợi như chúng ta như thường. 

 

Khi chúng tôi dạy Vi Diệu Pháp qua đến những khía cạnh tâm sở thi` chúng tôi chỉ tri`nh bày những tâm sở mà chúng tôi vừa dạy tánh tợ tha hay là tâm sở, thi` ở đây sau khi giảng giải về y’ nghĩa của các pháp kế đến là chúng tôi phân loại, chúng tôi mới sang một y’ nghĩa khác, một phần khác khi chúng ta nói đến chức năng của mỗi tâm sở tợ tha rồi. thi` chúng tôi lại nói đến tâm tợ tha phối hợp với tâm, những tâm nào đă học, về tầm tâm sở, thi` tầm tâm sở nó chỉ phối hợp với 5 tâm có thể tương ưng với tầm được thôi.  Khi chúng ta nói đến tứ tâm sở thi` chúng ta phải biết tứ tâm sở nó chỉ tương ưng phối hợp với 66 tâm, chi phần thứ 5 lúc bấy giờ chúng tôi mới đề cập đến tâm sở tợ tha nằm ở trong tương hiệp tập yếu tức là lúc đó chúng tôi sẽ rút những chi pháp quan trọng ở trong một tổng hợp khác có nhắc đến, thí dụ như bây giờ chúng ta học về tâm tầm thi` chúng ta phải nhắc đến chánh tư duy ở trong bát chánh đạo, khi chúng ta học về tứ là chúng ta phải nói đến hay là tứ chánh cần, cần như y’ túc, tấn quyền, bát chánh đạo, mỗi một thứ tâm sở nó có vai tro` quan trọng như vậy cái việc làm của nó như thế.

 

Minh Hạnh biên soạn & Cô Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính