Ngày 06 tháng 08 năm 2004

Minh Hạnh biên soạn & Cô Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính

Những Thuộc Tánh Tợ Tha (TT)

Thuộc Tánh Biến Hành (Phần 7 Tác Y' - Manasikàra)

Những điểm chính

· Thuộc tánh tợ tha là ǵ?

· Thế nào là thuộc tánh biến hành

· Thuộc tánh xúc

· Thuộc tánh thọ

· Thuộc tánh tưởng

· Thuộc tánh tư

· Thuộc tánh định

· Thuộc tánh mạng quyền

· Thuộc tánh tác y'

13.1 Sở hữu tợ tha là những sở hữu không có đặc tính riêng biệt, chúng mang đặc tính của tâm mà chúng phối hợp; nếu hợp với tâm Thiện, th́ đặc tính của chúng là Thiện; nếu hợp với tâm Bất Thiện, th́ đặc tính của chúng là Bất thiện; nếu hợp với tâm Vô Kư, th́ đặc tính của chúng là Vô Kư. Sở hữu tợ tha được chia ra làm hai loại:

I. Sở Hữu Biến Hành (Sabbacittasādhāranā)

Sở hữu biến hành là những sở hữu có mặt trong 121 tâm, không một tâm nào có thể thiếu các Sở Hữu này; gồm có 7 Sở Hữu:

ooOoo

 

TT Giác Đẳng: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, kính bạch Chư Tôn Đức, thưa qúi Phật tử, chúng tôi xin được lưu y' qúi Phật tử học A Ty` Đàm. Anh ngữ là một ngôn ngữ tương đối mới với Phật học, chúng tôi gọi mới với Phật học bởi vi` măi đến cuối thế kỷ thứ 18, hội Pali Text Society tuy mới chào đời, nhiều nhà học giả tiền phong như ông bà Rhys Davids chẳng hạn, đă cố gắng mượn một số khái niệm rất Tây phương, kể cả một số khái niệm thần học của Tây phương. Ví dụ như bản dịch Tạng Luật của bà I. B. Horner thi` chúng ta thấy rằng đă sử dụng rất nhiều danh từ của kinh thánh để chuyển dịch, do vậy một từ vựng nào được sài ở trong ngành Phật học, nó phải mất nhiều thời gian để làm quen với quần chúng,  và quần chúng phải có một cách hiểu đặc biệt hơn ngành Phật học, do vậy có một số Phật tử thường yêu cầu chúng tôi  nên có những chữ Anh được ghi chú vào để qúi vị có thể rơ những y' nghĩa của những từ Hán Việt. Chúng tôi xin thưa rằng việc đó chúng tôi có thể làm, tuy vậy nó vẫn không tốt bằng chúng ta học trực tiếp và nghe Chư Tăng giảng.

 

 Chúng tôi lấy ví dụ là chữ tác y' ở tại đây, HT Narada đă ti`m một chữ gần nhất trong Anh ngữ, HT dịch là attention, attention chúng ta dịch là chú y' thi` nó có y' nghĩa rất tương đối thôi, nó không thể nào nói hết y' nghĩa chữ manasikàra mà chúng ta dịch là tác y' ở đây được. Do vậy trên nhiều phương diện thi` chúng ta biết rằng từ ngữ Hán Việt vốn đă chuyên chở những tư tưởng Phật học suốt thời gian hơn 20 thế kỷ qua .  Những công tri`nh của những bậc tiền nhân như Ngài An Thế Cao, Ngài Ưu Ma La Thập, Ngài Huyền Trang v.v... đă đầu tư bao nhiêu tâm huyết và bao nhiêu sự đắn đo để lựa chọn, để dịch hoặc phiên âm những từ vựng Phật học, và rồi không những thế mà ngoài sự cố gắng của qúi Ngài, thi` nền văn hóa Trung Hoa và Việt Nam đă cố gắng để uốn mi`nh, để hiểu những từ vựng đó theo cách hiểu của người Ấn, việc đó là việc rất quan  trọng. 

 

Chúng tôi lấy ví dụ, nếu qúi vị Phật tử về Trung quốc ngày hôm nay, qúi vị đến thăm một vài công viên, người ta có treo lồng đèn rất lớn, ở trên đó họ để chữ Phước rất lớn, mới thấy chữ Phước đó, có Phật tử nói tại sao trong một xứ như vậy mà việc phước đức được người ta đề cao như thế. Nhưng thưa qúi vị chữ phước theo nhân gian của Trung quốc họ hiểu khác và chữ phước ở trong đạo Phật hiểu khác đi. Như chữ phước lộc thọ của người Trung quốc thi` chữ phước đó rất hạn chế, trong khi chữ phước của đạo Phật thi` bao trùm cả lộc cả thọ và cả trí tuệ, rất nhiều thứ khác cũng gọi phước.  Do vậy phải nói một điều dù rằng có những dấu tích về từ vựng Anh ngữ, thi` những từ vựng đó không chắc đă chuyên chở, đă chuyển đạt hết được những y' nghĩa cần thiết cho chúng ta trong việc nghiên cứu. 

 

Tuy nhiên có sự tham khảo giữa cái này và cái khác thi` nó vẫn tốt hơn là chỉ có một thứ, và hôm nay chúng tôi cũng có nhờ quí Phật tử làm việc trong ban điều hành post lên một bản bằng Anh ngữ, bản dịch này của Ngài Narada. Chúng tôi thường dùng bản dịch của Ngài, bởi vi` Ngài xuất thân từ một trường Phật học của Thiên Chúa giáo, do vậy Ngài rất quen thuộc với nền triết học của Tây phương và đồng thời là một nhà thâm cứu về Đạo Phật, nên sự lựa trọn từ ngữ của Ngài rất đắn đo.  Hầu như suốt cả hậu bán thế kỷ trước, những nhà Phật học thế giới thường dùng những bản dịch của Ngài Narada, được xem như bản dịch chuẩn để sài cho rất nhiều trường hợp khác nhau, khi nói đến từ vựng Phật học ở trong tiếng Anh.  Điều đó chúng ta cũng ghi nhận, và đảnh lễ Ngài, một vị danh tăng đă có nhiều đóng góp cho Phật Giáo thế giới, và cũng như Phật giáo Việt Nam. 

 

Kính bạch Chư Tôn Đức và thưa quí Phật tử, chúng tôi xin được bắt đầu bài học ngày hôm nay với chữ tác y' hay manasikàra. Manasikàra được hiểu như  khả năng tập trú, khả năng tập trú này cho phép chúng ta định hướng rơ ràng. Tập trú hay định hướng là vai tro` của tâm sở biến hành này, dĩ nhiên công  việc của nó hoàn toàn mang tính cơ năng.

 

Nếu qúi vị nào theo dơi sinh hoạt của quốc hội Hoa Ky`, hay một vài quốc hội khác trên thế giới thi` mỗi một đảng như vậy, họ có người gọi là người whip, người whip có phận sự để gom tất cả thành viên của đảng. Ví dụ đảng Dân Chủ hay đảng Cộng Ḥa tập trú vào một sách lượt có thể nói quan trọng của đảng, hay tập trú vào một sách lượt, ví dụ như ủng hộ cho vị Tổng Thống đương kim là người của đảng chẳng hạn, một quốc hội thi` có nhiều vị dân cử và mỗi vị dân cử này có thể có y' kiến khác biệt. Vai tṛ của người whip là làm thế nào mà tất cả những vị dân cử thuộc cùng một đảng lại có thể có y' kiến đồng bộ về một chánh sách, mà những người lăng đạo đảng nghĩ rằng nó cần thiết, nó quan trọng để nói lên cương lĩnh của đảng, hay đường hướng của một đảng chính trị như đảng Dân Chủ hay Cộng Ḥa. 

 

Ngài Narada ở đây Ngài cũng ví dụ tác y' manasikàra có thể được xem như bánh lái tàu, quí Phật tử nào đă từng đi biển và có dịp ra biển, qúi vị biết rằng khi tàu ra khơi là cả một chân trời mênh mông, bao la bốn phía đều là biển cả. Người tài công là người phải biết định hướng, tàu sẽ đi về một góc độ nào đó và phải biết lái để sóng và gió không làm lệch hướng đi, bánh lái tàu đó nó giúp cho chiếc tàu định hướng rơ ràng và nhờ định hướng như vậy nên chiếc tàu có thể đến được bến bờ.  Như người tài công có trách nhiệm để điều khiển con tàu, thi` Ngài Narada Ngài nói rằng định hướng đó nó tương tự như manasikàra hay tác y',  chúng ta nói đến tại đây.

 

 Hoặc giả đưa ra một ví dụ khác, nếu qúi vị nào đă thường dùng máy chụp hi`nh, thi` qúi vị hiểu rằng máy chụp hi`nh khi chúng ta đưa lên, thi` máy phải có một bộ phận gọi là focus, một bộ phận này tập trú vào một điểm nào đó trong bức tranh lớn đang có mặt ở trước mắt, và bắt buộc focus đó phải dùng điểm đó để nó tự điều chỉnh, nếu nó là máy tự động để điều chỉnh từ cự ly, rồi từ khổ độ của ống kính v.v...  thi` chính vi` có một điểm để tập trú và bộ phận giữ chức năng và focus đó nó giúp cho máy có thể làm việc như người chụp hi`nh mong muốn, thi` cái focus đó, cơ phận làm việc của focus nó tương tự như tác y' ở trong các tâm.