Ngày 16 tháng 07 năm 2004

 

Minh Hạnh biên soạn & Cô Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính

 

Bài 13

 

Những Thuộc Tánh Tợ Tha

Thuộc Tánh Biến Hành (Xúc – Phassa)

 

Những điểm chính

1        Thuộc tánh tợ tha là ǵ?

2        Thế nào là thuộc tánh biến hành

3        Thuộc tánh xúc

4        Thuộc tánh thọ

5        Thuộc tánh tưởng

6        Thuộc tánh tư

7        Thuộc tánh định

8        Thuộc tánh mạng quyền

9        Thuộc tánh tác y'

Bài học dưới đây trích từ tập sách: "Vi Diệu Pháp Giảng Giải" của Pháp Sư Giác Chánh. Từ ngữ " sở hữu" được hiểu là "thuộc tánh của tâm" theo giáo án giảng giải trong Room Diệu Pháp

13.1 Sở hữu tợ tha là những sở hữu không có đặc tính riêng biệt, chúng mang đặc tính của tâm mà chúng phối hợp; nếu hợp với tâm Thiện, th́ đặc tính của chúng là Thiện; nếu hợp với tâm Bất Thiện, th́ đặc tính của chúng là Bất thiện; nếu hợp với tâm Vô Kư, th́ đặc tính của chúng là Vô Kư. Sở hữu tợ tha được chia ra làm hai loại:

ooOoo

 

TT Giác Đẳng: Thưa quí vị trong câu trả lời của Sư Trưởng, trước nhất liên quan đến câu hỏi chúng tôi hỏi Sư Trưởng, thi` qúi vị nghe Sư Trưởng trả lời trong ba y' đầu tiên, Sư Trưởng đă trích dịch trong cách định nghĩa, định nghĩa từ vựng trong các bản kinh có thể nói rằng gối đầu giường của chúng ta, như quyển Thắng Pháp Tập Yếu Luận ở trong đó HT Minh Châu gói ghém kể cả bản sớ giải của Ngài kasac, viện trưởng viện đại học Ananda.   Chúng ta cũng nghe nhiều đoạn kinh khác nhau, Sư Trưởng trích dẫn như một tài liệu căn bản để tạo định nghĩa cho bài học do Sư Trưởng soạn ra, và chúng ta đă dùng ở đây trong bài học ngày hôm nay. 

 

Điểm thứ hai Sư Trưởng nêu lên khi chúng ta nói rằng xúc sở sanh thọ, thi` cái đó mang hi`nh thức chúng ta thường gọi trong A Ty` Đàm, gọi là hổ tương duyên như ghế ba chân, cái này nó trợ cái kia, mặc dầu ba nó đồng thời có mặt, nó đồng hiện hữu, nhưng cái này nó trợ cho cái kia,

 

Điểm thứ ba, Sư Trưởng có nhắc đến một số cái tinh thần, đúng hơn chúng tôi gọi là thái độ. Cái tinh thần là chúng ta cho dù dựa trên sự quảng diễn nào, thi` cũng phải y cứ vào cách giải thích truyền thống để không có đi quá xa, đó là ba y' Sư Trưởng đă giải thích trong câu giải thích của Sư Trưởng.

 

Chúng ta phải nói rằng có một may mắn rất lớn trong lớp học A Ty` Đàm, thật ra từ nhỏ tới lớn vô trong chùa học A Ty` Đàm, ít có khi nào có được điều kiện để qúi học viên có thể nghe nhiều vị Giảng Sư cùng thảo luận với nhau, và trong rơom này đặc biệt có nhiều Chư Tăng cùng ngồi lại để thảo luận, chúng tôi mong rằng nếu qúi vị cố gắng nghe, thi` qúi vị sẽ không đặc  vấn đề là ai đúng ai sai, và vấn đề là mỗi một điểm nào nó cần sự soi sáng nhiều y' kiến, nhiều sự đóng góp khác nhau.

 

Kính bạch TT Trí Siêu, nếu một người do họ không thu thúc sáu căn, họ để cho tự mi`nh để thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng, do những cảnh dục lạc, và từ chỗ đó sanh ra phiền năo.  Trên một câu chuyện rất bi`nh thường trong cuộc sống của chúng ta như vậy, thi` bấy giờ chúng ta lại nghĩ đến câu  Đức Phật nói nhăn xúc sở sanh thọ, nhĩ xúc sở sanh thọ.

 

Nghe làm gi`, thấy làm gi` để rồi cho tâm tư mi`nh nó phải vương mang, để cho tâm tư mi`nh phải trĩu nặng. Cái nghe thấy thật sự không có ích lợi, thi` chúng ta khi nói đến nhăn thức sở sanh thọ, nhĩ thức sở sanh thọ trong mạch văn như vậy nghe rất bi`nh thường.   Chúng ta thấy nó đi theo thứ tự có trước, có sau, có nghĩa là do tâm dễ dui rồi để cho 6 căn không thu thúc.

 

Sáu căn không thu thúc tiếp xúc với cảnh cũng như vậy, do đó tiếp xúc như vậy nó tạo ra cảm thọ như vậy, chúng ta thấy nó có trước có sau.

 

Ở đây  trong A Ty` Đàm tất cả chúng ta đều đồng y' một điểm rằng, đó là bốn danh uẩn thi` nó đồng sanh, nghĩa là trong một tâm tối thiểu đi nữa nó cũng có 7 tâm sở biến hành, nghĩa là xúc, thọ, tưởng, tư, nhất hành, mạng quyền, tác y', nó đồng sanh với nhau. Ở đây Sư Trưởng đă dùng ví dụ về cái ghế mang tánh cách hổ tương duyên, nghĩa là 4 chân nó đồng thời, và chân này trợ cho chân kia, nó không có yếu tố trước sau về thời gian.

 

Bạch TT Trí Siêu về điểm này có một tranh luận rất lớn, khi chúng ta giảng thập nhị nhân duyên, Ngài Buddhaghosa một vị danh tăng của Thái Lan, cũng đă nhiều lần bàn thảo trong cuốn sách của Ngài, khi Ngài viết thập nhị nhân duyên.  

 

Thi` theo TT Trí Siêu, chúng ta có nên nhi`n vấn đề ở trong hai cách nói khác nhau hoàn toàn, ví dụ khi chúng ta nói nhăn xúc sở sanh thọ, nhĩ xúc sở sanh thọ, là chúng ta cứ nhi`n trong bối cảnh thường thức ở bên ngoài, và nó có trước có sau, do có cái này nó sanh ra cái kia, hay chúng ta nên nhi`n nó qua câu nói nhăn xúc sở sanh thọ, tuy nói như vậy nhưng nó đồng sanh chứ không nhất thiết có trước có sau.  Xin thỉnh TT Trí Siêu cho biết y’ kiến của TT về câu nói này, bởi vi` vấn đề xúc duyên sanh cho thọ nó là một đề tài lớn trong thập nhị nhân duyên.  Và chúng ta cũng nghe nhiều đoạn kinh rất danh tiếng, thí dụ như kinh Đế Thích Sở Vấn hay nhiều đoạn kinh khác Đức Phật, Ngài dạy cho Tôn Giả Rahula, những giáo giới Rahula này cũng nhắc đến sự chi phối của sự gặp gỡ căn cảnh và thức, do nó tạo ra các cảm thọ.  Thi` theo TT Trí Siêu mi`nh nên hiểu nó theo hai mạch văn khác, hai bối cảnh khác nhau, hay chúng ta nên gôm nó lại để chúng ta có một cái định nghĩa, định nghĩa như Sư Trưởng, và định nghĩa đó là một quan hệ hổ tương, không trước không sau, mà đồng sanh, xin thỉnh TT Trí Siêu.

 

TT Trí Siêu: Kính bạch Chư Tăng, kính thưa quí vị, khi chúng ta bàn về Phật pháp, nhất là những gi` liên quan đến đề tài lớn.  Như ở đây khi chúng ta nói đến xúc duyên thọ trong thập nhị nhân duyên, hay trong pháp duyên khởi, thi` quả thật đó là một vấn đề chúng ta cần phải được thảo luận ra đây.

 

Tất nhiên khi chúng ta bàn đến vấn đề xúc sở sanh thọ, khi chúng ta nói đến 4 danh uẩn đồng sanh trong một sát na tâm, thi` xúc duyên thọ bằng cách hổ tương duyên, hay đồng sanh duyên, chẳng những vậy mà xúc thi` duyên cho tất cả những tâm sở đồng sanh với nó cũng bằng cách đó.  Ở đây thật ra thi` không có vấn đề gi` để chúng ta nói cả, theo chúng tôi nếu đặc vấn đề các duyên khởi, tức 12 mắc xích để tạo ra vo`ng luân hồi, sự luẩn quẩn, thi` ở đây chúng tôi lại chuộng đến cách tri`nh bày, do xúc duyên cho thọ bằng cách thường cận y, là vi` ở đây có thọ khổ, thọ lạc, thọ phi khổ phi lạc, do duyên mắt thấy tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc chạm, và y' suy nghĩ , có như vậy thi` thọ mới duyên cho ái được. 

 

Như chúng ta đă biết khi nhi`n cái gi`, khi tai nghe tiếng, cảm thọ phát sanh lên, tức là thọ hỷ hoặc, thọ ưu, hoặc thọ khổ, thọ lạc, hay thọ phi khổ phi lạc, thọ xả, lúc đó chúng sanh mới có thể khởi một sự ái nhiễm đối với cảnh sắc hay cảnh thinh v.v...Co`n nếu như nói rằng xúc duyên thọ mà giải thích là đồng sanh duyên, hay hổ tương duyên trong một sát na tâm, thi` xúc duyên thọ như chúng ta đă biết, nhăn xúc hay nhăn thức ở trong xúc duyên cho thọ, thọ đó chắc chắn chỉ là thọ xả thôi, trong tâm nhăn thức phải là thọ xả.  Tâm nhĩ thức là thọ xả, tâm tỷ thức là thọ xả, tâm thiệt thức là thọ xả, chỉ có tâm thân thức là mới là thọ khổ hay thọ lạc.  Thi` trong trường hợp này thọ trong tâm nhăn thức thọ của nhĩ thức v.v.. thi` thọ đó chỉ thoáng qua trong một sát na, nếu nói như vậy thi` không đủ để làm cảnh hay làm năng duyên cho ái sanh khởi, thi` trong trường hợp này nếu nói theo duyên khởi chúng tôi lại quan tâm đến một khía cạnh được giải thích ở đây tức là do duyên xúc cảnh sắc, cảnh thinh, cảnh khí, cảnh vị cảnh xúc, cảnh pháp mà khởi lên một trong ba cảm thọ, tức là khổ lạc tu hỷ xả hoặc khổ lạc phi khổ phi lạc.  

 

Có như vậy thi` việc chúng ta tu tập, chúng ta mới có thể gọi là có chánh niệm, và thu thúc được đối với khi mắt bắt cảnh sắc thi` cảm thọ sanh khởi, và tiếp theo đó là những thứ tâm thiện, hay tâm bất thiện sanh lên. Chúng ta sẽ chánh niệm để chúng ta kiểm tra lại nội tâm của mi`nh, và lúc đó gọi là thu thúc.  Như chúng ta thu thúc về mắt, tất nhiên khi mắt thấy cảnh sắc thi` là thọ xả, chứ không có ti`nh trạng trong nhăn thức có thọ ưu. Thế thi` trong vấn đề này, chúng ta đặt trường hợp vị hành giả tu tập tu tập thu thúc về nhăn căn v.v... Làm như thế đó có lẽ chúng ta hơi khó nhận diện rằng, ở đây trong một bản chú giải về phần duyên sinh, bản chú giải đó cũng có đề cập đến về vấn đề xúc duyên thọ, giải theo hai cách, một cách là câu sanh duyên, một cách là thường cận y duyên. 

 

Ở đây chúng ta đă thường bàn bạc, chúng tôi không phủ nhận cả hai cách giải thích đó.  Nhưng theo cách giải thích thường khi chúng tôi thuyết pháp giảng đạo để cho Phật tử nghe và tu tập thực hành, thi` chúng tôi lại nghiên về lối giải thích xúc duyên cho thọ theo đời thường, để Phật tử dễ nhận hiểu khi thấy cảnh sắc, nếu thấy cảnh sắc toại y', thường thi` chúng sanh khởi lên sự hoan hỷ, trong sự hoan hỷ đó nếu biết chánh niệm dừng lại ở chỗ này, thi` tâm tham ái không thể sanh khởi.  Co`n nếu như gặp cảnh sắc bất toại nguyện, cảnh sắc xấu, lúc bấy giờ tâm buồn bực chán nản sanh khởi, lúc đó dừng lại ở đây, có chánh niệm ở đây, thi` tâm sân không sanh khởi được.  Do vậy trong trường hợp này chúng ta cũng cần phải suy xét về khía cạnh đó, tất nhiên chúng tôi chỉ tri`nh bày theo quan điểm, theo cảm nghĩ của chúng tôi, và những gi` chúng tôi kinh nghiệm trong việc tu tập thấy được, chúng tôi chỉ xin góp y' để trả lời câu hỏi của TT Giác Đẳng đă nêu lên trong vấn đề này là như vậy.

 

Minh Hạnh biên soạn & Cô Tu Nữ Diệu Tịnh hiệu đính