2500LichSu_Chuong12
Các Thánh Địa Của Phật Giáo
C. Ở MIỀN NAM ẤN
Nếu như một số nơi ở Maharastra đã trở thành quan trọng trong thời kỳ Phật giáo phồn thịnh do các công trình kiến trúc trong đá tuyệt vời của chúng thì cũngcó một số địa điểm tại Andhra trở nên nổi tiếng vì những ngôi tháp Phật giáo nguy nga không kém của các nơi này. Phật giáo đã được củng cố tại Andhra trong thời vua A-dục, nếu không phải là sớm hơn, do ở vị trí trung gian của nó giữa Ma-kiệt-đà, quê hương của Phật giáo, và Tích Lan, khi ấy đã trở thành một pháo đài của Phật giáo. Cùng với nước này, Andhra đã có sự giao dịch đường biển qua các cửa sông lớn của mình. Vì các tín đồ Phật giáo phần đông là thuộc tầng lớp thương nhân, cho nên họ đã sử dụng tiền của của mình để xây những ngôi tháp lộng lẫy.
Những tháp này được xây tại nhiều nơi trong vùng nằm giữa các thung lũng thấp ở Krishna và Godavari. Người ta đã tìm thấy một số địa điểm của Phật giáo từ Salihundun ở phía Bắc đến Chinganjam ở phía Nam, trong số đó các địa điểm sau đây là quan trọng nhất vì ở đó có những ngôi tháp tuyệt đẹp.
Các tháp ở Amaravati và Nagarjunakonda trong quận Guntur và ở Bhattiprolu, Jaggayyapeta, Gusiwada va Ghantsala trong quận Krishna, đã được xây trong thời gian từ thế kỷ thứ 2 trưóc Công nguyên đến thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên. Các tháp này gồm những vòm bán cầu xây bằng gạch và đặc biệt là có những phần lồi hình chữ nhật tại bốn góc chính của đáy vòm. Chúng được hoàn thành với một vẻ duyên dáng mềm mại, được sơn màu trắng và được trang trí dưới đáy bằng những pa-nô đá cẩm thạch trắng chạm trổ nhiều hình nổi thấp. Kỹ năng và sự tuyệt hảo về nghệ thuật của các thợ thủ công Andhra được thấy rõ nhất trong việc xây dựng các ngôi tháp và sản xuất ra các chiếc hộp nhỏ bằng pha lê và các loại đá qúy khác.
Các công trình kiến trúc Phật giáo có sớm nhất tại vùng này là tháp Bhattiprolu, được xây cào thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, có lẽ do một đoàn truyền giáo trong thời đại của ông vua địa phương tên là Kubiraka. Việc cho rằng đây là đại tháp cất giữ di hài của Đức Phật tỏ ra xác đáng khi người ta tìm thấy tại đây một xá lợi xương bên trong một hộp pha lê cùng với những đóa hoa bằng vàng và ngọc.
Amaravati
Amaravati, cách Guntur 16 dặm về phía tây, là địa điểm Phật giáo quan trọng nhất tại Andhra. Ngôi tháp ở đây là tháp lớn nhất và nổi tiếng nhất. Tháp bắt đầu được xây lần đầu tiên trong thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên và được làm lớn thêm trong khoảng năm 150 và 200 do những nỗ lực của ngài Long Thọ (Nagarjuna). Tháp có mái vòm 48,6 mét và cao 28,5 mét. Con đường đi nhiễu quanh tháp (pradaksinapatha) có bề rộng gần 5 mét và lan can bao quanh con đường này cao 4,3 mét. Tháp này lớn hơn tháp ở Sanchi, chỉ có bề rộng 36 mét và cao 16,3 mét.
Các hàng lan can đẹp mắt mô tả các cảnh trong cuộc đời Đức Phật. Các hoa văn nổi, với sự phối hợp cân xứng một cách tuyệt mỹ, được xếp vào số tác phẩm nghệ thuật vĩ đại nhất của Ấn Độ. Tháp Amaravati có thể tranh đua với các tháp Sanchi và Bharhut ở phía Bắc về vẻ đẹp nghệ thuật và về tầm cỡ. Giống như các trường phái điêu khắc Mathura và Gandhara, trường phái Amaravati có thể gây một ảnh hưởng mạnh mẽ. Các sản phẩm ở đây đã được mang đến Tích Lan, vùng Đông Nam Á, và đã có ảnh hưởng đáng kể trên các kiểu dáng của địa phương.
Nagarjunakonda
Người ta không được biết gì về ngôi tháp lớn ở Nagarjunakonda hay đồi Nagarjunakonda cho đến khi tháp này được phát hiện cách đây vài chục năm. Tháp nằm trên mạn phía Nam của sông Krishna trong quận Guntur. Đây cũng là một đại tháp vì có cất giữ di hài của Đức Phật, và có lẽ được xây vào thời vua A-dục. Tháp được tân tạo và xây cất bổ sung bởi Santisiri cùng các mệnh phụ khác thuộc hoàng tộc tại chỗ, những người này được xem là đã có công giúp cho Phật giáo phát triển tại Andhra trong thế kỷ thứ 3. Tháp này nay tuy đã đổ nát nhưng trông còn đồ sộ hơn tháp ở Amaravati. Hàng trăm công trình điêu khắc thực hiện theo phong cách Amaravati đã được tìm thấy tại đây. Qua các dòng chữ khắc trên các cây trụ Ayaga, người ta thấy rõ rằng Nagarjunakonda, thành phố cổ của Vijayapuri, có tầm quan trọng to lớn của một trung tâm Phật giáo và đã có danh tiếng quốc tế. Nhiều tu viện đã được xây cất tại nơi này để làm nơi trú ngụ cho tu sĩ Phật giáo thuộc các tông phái khác nhau từ nhiều nước đến như Tích Lan, Kashmir, Gandhara, Trung Hoa.
Người dân Andhra giao thương với cả trong nước và nước ngoài, họ đã có những sự tiếp xúc sâu xa với xã hội La Mã thời ấy. Điều này được chứng minh qua sự phát hiện những bản khắc và công trình điêu khắc mô tả một chàng lính râu ria mặc áo chẽn, quần tây, và nhiều vật dụng khác có nguồn gốc từ La Mã
Tại Andhra, các nơi như Guntapali - cách ga xe lửa Ellore 28 dặm, và Sankaram - cách Anakapalli một dặm về phía Đông, là những địa điểm nổi tiếng vì các công trình kiến trúc trong đá. Các địa điểm khác trong vùng lân cận cũng được xem là có tầm quan trọng trong thời đại của Phật giáo, điều này được xác nhận qua sự hiện diện của các ngôi tháp cùng các di tích cổ tại đây. Các địa điểm đáng chú ý nhất trong số này là Goli, Chezarta Gummatia, Bezwada, Garikapadu, Uraiyur, Kuvain, Chinve và Vidyadharpur.
Nagapattam
Nagapattam, ở gần Madras trên bờ biển phía Đông, đã có hoạt động Phật giáo từ thời đại Chola. Một bản chữ khắc quan trọng trên phiến đồng của thế kỷ thứ 11 cho biết rằng vua Chola là Rajaraja, đã ban cấp làng Anaimangalam dùng để bảo dưỡng cho một ngôi đền Phật giáo trong tu viện Culamanivarama do vua Sailendra, Maravijayottung Varman của Srivijaya và Kataha của Indonexia dựng nên, tại Nagapattam. Trong phần cuối cuốn luận giải của mình về bộ Nettipakarana, ngài Hộ Pháp (Dhammapala) có nói đến địa điểm này và tu viện Dharmasoka trong đó, nơi ông đã viết cuốn luận giải.
Srimulavasam
Srimulavasam, trên bờ biển phía Tây của Ấn Độ, đã có các hoạt động Phật giáo trong thời đại một ông vua có cùng tên này. Trong một ngôi đền lớn tại Tanjore, các cảnh trong cuộc đời Đức Phật được thể hiện trên các tấm pa-no trang trí.
Kanchi
Kanchi với điện Rajavihara và một trăm tu viện tại đây từng là một pháp đài của Phật giáo tại miền Nam Ấn. Năm tượng Phật đã được tìm thấy gần thành phố này.
Phật Âm (Buddhaghosa), luận sư Pali nổi tiếng, trong bộ luận thư của mình (Manorathapurani), có nói rằng ông viết cuốn sách này là theo yêu cầu của Thượng tọa Jotipala cùng ở với ông tại Kanchipura. Huyền trang cũng nói đến một người tên là Dhammapala ở Kanchi, vốn là một đại luận sư của Nalanda. Tại Triều Tiên cũng đã tìm thấy một bản chữ khắc bằng thơ nói về nơi này. Trong lời tựa của tác phẩm này do Lý Tư viết năm 1378 có kể về cuộc đời và chuyến đi của một tu sĩ Ấn Độ tên là Dhyanabhadra. Chuyện kể này cho chúng ta biết rằng tu sĩ ấy là con trai của một ông vua ở Ma-kiệt-đà và một bà hoàng ở Kanchi, và khi đến thăm Kanchi, vị tu sĩ ất đã được nghe một nhà thuyết pháp Phật giáo nói về bộ kinh Karanda vyuhasutra. Như vậy, mãi cho đến thế kỷ thứ 14, nơi này mới được biết đến là một trung tâm Phật giáo.
Xem Tiếp Trang Sau: Chương 13