CHƯƠNG X

 

NHỮNG NHÀ HÀNH HƯƠNG TRUNG HOA

 

Vào khoảng thế kỷ thứ bảy, khi châu Âu c̣n đang sống trong “Thời kỳ Trung cổ”, th́ Ấn Độ và Trung Hoa đă có một cuộc sống chính trị, tri thức, tôn giáo và nghệ thuật mạnh mẽ. Mối ràng buộc chung do Phật giáo tạo ra giữa hai quốc gia này đă làm nảy sinh một ḍng khoa học nhân văn to lớn lan rộng từ Tích Lan đến Nhật Bản. Sau một ngh́n năm Phật giáo với nhiều sự kiện quan trọng, sự huyền nhiệm của Phật giáo đă lên đến cực đỉnh và gợi nguồn hứng cảm mới cho nền mỹ học và triết học của Ấn Độ. Có thể xem Giới Hiền, đạo sư của đại học Nalanda và học tṛ của ông là Huyền Trang, học giả từ Trung Hoa đến, tiêu biểu cho môt khía cạnh của sự phát triển này, c̣n khía cạnh kia là sự bôc phát của chủ nghĩa Tự nhiên trong nghệ thuật ở Mamallapura (Mahabalipuram). Cả hai cùng được sinh ra từ những sức mạnh sáng tạo có giá trị lâu dài. Nước Trung Hoa thống nhất trở lại dưới triều đại nhà Đường hùng mạnh, đă nồng nhiệt tiếp nhận những tư tưởng mới và sẵn sàng để cho sức mạnh của ḿnh dịu mềm đi dưới ảnh hưởng nhẹ nhàng của Ấn Độ. Huyền Trang và Nghĩa Tịnh, hai nhà hành hương duy nhất nổi tiếng giữa bao người khác, đă để lại những tập kư sự nhắc lại rất nhiều về sự chuyển biến lớn này mà cả Nhật Bản cũng có tham dự. Ngôi chùa Horyuji do Shotuku Taisha xây dựng vào năm 607 tại Nara vẫn c̣n là một chứng tích lâu đời về sự biến đổi này. Tôn giả Pháp Hiển, từ hai thế kỷ trước đó, đă là người báo trước về sự biến đổi này, ông là người khách Trung Hoa đầu tiên đến Ấn Độ đă để lại tập kư sự về các chuyến đi của ḿnh.

 

Pháp Hiển

Pháp Hiển (Fa-hien), người đầu tiên trong ba vị khách hành hương Trung Hoa, đă ghi chép lại các chuyên đi của ḿnh. Ông gần như đă đi bộ suốt cả con đường từ miền Trung Trung Hoa băng ngang sa mạc Gobi, vượt qua dăy núi Hindu Kush, băng qua miền Bắc Ấn để đến hải cảng Tamralipti ở Bengal. Đến đây, ông lên thuyền đi Tích Lan rồi trở về Trung Hoa bằng đường biển sau một hành tŕnh phiêu lưu với những phen thoát hiểm chỉ trong đường tơ kẻ tóc. Ông mang vè được những ǵ mà ông đă qua Ấn Độ để t́m kiếm - các kinh sách Phật giáo cùng những tượng Phật.

Pháp Hiển thấy buồn ḷng v́ t́nh trạng “giới luật” của Phật giáo tại Trung Hoa nên đă quyết tâm cùng các đạo hữu của ḿnh đi đến Ấn Độ để t́m các bộ “luật”. Khởi hành từ Trường An (Chang-an) và qua nhiều chặng đường họ đến được Đôn Hoàng (Tun-huang) tại đoạn cuối của Trường thành. Quan cai trị ở đấy cấp cho họ mọi thứ cần thiết để họ có thể vượt qua sa mạc Gobi. Pháp Hiển ghi lại: “Trong sa mạc này có rất nhiều ma quái và gió nóng, sức người không chịu nổi. Trên trời chẳng có chim, dưới đất chẳng có thú. Đưa mắt cố nh́n thật xa mọi hướng để t́m một dấu vết đường đi nhưng chẳng thấy ǵ ngoài mấy bộ xương khô của những khách bộ hành xấu số, nhờ đó mà biết đường đi”.

Ông ghi nhận ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hóa Ấn Độ tại những nước ông đến ở miền Trung Á. Trong nước Thiện Thiện (Shan-Shan) (phía Nam của Lop-Nor) có khoảng bốn ngh́n tu sĩ Tiểu thừa (Leser Vehicle) và dân chúng theo tôn giáo của Ấn Độ với vài sửa đổi. “Từ đây đi về phía Tây, những nước chúng tôi đi qua đều giống nhau về mặt này… Đồng thời, những người đă xuất gia (tu sĩ và sa di) đều học kinh sách Ấn Độ và ngôn ngữ được nói ở Ấn Độ”. Đoàn hành hương ở lại Kara-shahr hai tháng mấy ngày, nơi này cũng có trên 4.000 tu sĩ Tiểu thừa.

Chặng tiếp theo là Khotan, một quốc gia sung túc thịnh vượng với mười ngh́n tu sĩ, hầu hết theo Đại thừa (Greater Vehicle). Pháp Hiển cùng đoàn người của ông được cho ngụ tại Tu viện Gomati rộng lớn và tiện nghi theo lệnh của nhà vua. Tu viện có một nội qui chặt chẽ. “Khi nghe tiếng chuông th́ ba ngh́n tu sĩ tập họp lại để dùng bữa. Họ bước vào nhà ăn với thái độ tề chỉnh và trang trọng; họ ngồi theo thứ tự thường lệ; tất cả đều giữ yên lặng, không khua động chén bát, và họ không cất tiếng gọi người phục vụ để lấy thêm thức ăn mà chỉ ra hiệu bằng tay.

Trong khi một số người trong đoàn của ông đi tiếp đến Kashgar th́ Pháp Hiển c̣n ở lại Khotan ba tháng để dự lễ diễu hành ảnh tượng rực rỡ, trong đó các tu sĩ Tu viện Gotami đi đầu trong số mười bốn tu viện lớn (không kể các tu viện nhỏ). Nhà vua và hoàng hậu cũng tham dự buổi lễ. Lễ diễu hành này giống như lễ hội Xe Hoa được tổ chức tại các tu viện lớn. “Các chiếc xe đều khác nhau; mỗi tu viện có một ngày để diễu hành phần ḿnh, bắt đầu từ ngày mồng một đến ngày mười bốn tháng tư âm lịch th́ mùa lễ hội chấm dứt và nhà vua mới trở về hoàng cung”.

Bảy hoặc tám lư (li - khoảng một phần ba dặm) về phía Tây của thành phố Khotan là Tu viện Mới của nhà vua, phải mất tám mươi năm mới xây xong, cao gần 80 mét, tiếp nhận sự sùng mộ và cúng dường của các vị vua của sáu quốc gia.

Lễ hội diễu hành đă măn, Pháp Hiển lại lên đường và hơn hai tháng sau th́ đến Kashgar, đúng dịp để tham dự đại hội pancaparisad hay đại hội năm năm một lần do nhà vua nước này triệu tập. Một đại hội như thế cũng đă diễn ra vào một thời điểm sau đó tại Ấn Độ theo sự triệu tập của đại đế Harsa Vardhana nước Kanauj với sự tham dự của Huyền Trang.

Tuy nhiên, đại hội tại Kashgar hẳn đă nhỏ hơn nhiều. Với sự ngưỡng mộ sùng tín, tôn giả Pháp Hiển đă nói về Kashgar: “Nước này có một cái ống nhổ của Đức Phật, ống nhổ này làm bằng đá và có cùng màu với bát khất thực của Người. Tại đây có một ngôi chùa được xây lên để thờ cúng xá lợi những chiếc răng của Phật”. Có thể t́m thấy nhiều chỗ nói về xá lợi và phép màu ở khắp mọi nơi trong chuyện kể của Pháp Hiển, nhưng chúng ta không thể đi sâu vào những điều ấy mà chỉ đề cập đến những ǵ đáng chú ư và quan trọng nhất trong số đó mà thôi.

Đáng nhắc lại là đoạn được cực kỳ nguy hiểm dọc theo dăy núi Bolor-Tagh và việc vượt qua con sông Indus lần đầu tiên theo lời mô tả của Pháp Hiển. “Bám theo dăy núi, đoàn chúng tôi tiếp tục cuộc hành tŕnh về hướng Tây Nam trong mười lăm ngày trên một con đường gay go dốc đứng và hiểm nghèo, v́ sườn núi giống như một bức tường đá với chiều cao hơn ba ngh́n mét. Lên đến gần sông núi th́ mắt đă mờ đi và khi muốn bước tới th́ cũng không có chỗ để đặt bàn chân nữa. Dưới kia là con sông Indus. Những người đă đến đây những lần trước đă đục đá để làm đường đi và phải đặt thang vào sườn đá. Tất cả có đến mấy trăm bậc đá, khi đă vượt qua hết những bậc đá và những cây thang này th́ chúng tôi phải đi qua con sông bằng cầu treo làm bằng dây thừng. Hai bên bờ sông cách xa nhau gần tám mươi bước”.

Sau khi trải qua mùa hè tiêp theo tại Ydyana, khi ấy là một trung tâm Phật giáo phồn thịnh, Pháp Hiển đi bộ theo hướng Nam để đến Gandhara và Taksasila, nơi mà Đức Phật đă tiên đoán là vua Ca-ni-sắc-ca sẽ cho xây một ngôi chùa ở Peshawar. Ngôi chùa này đă được Huyền Trang mô tả chi tiết và nền móng của nó dường như đă được các nhà khảo cổ t́m thấy. Pháp Hiển c̣n viết: “Trong số các đền chùa mà đoàn hành hương được thấy th́ không có một nơi nào có thể sánh được với chùa này về mặt vĩ đại và uy nghi, truyền thuyết cũng nói rằng trong số các ngôi chùa trên thế giới th́ chùa này được xếp vào hạng nhất”.

Từ Peshawa, Pháp Hiển một ḿnh đi đến Nagarahara (Hadda) v́ những người cùng đi đă rời bỏ ông. Thành phố này có một đền thờ, trong có xương sọ của Phật. Xá lợi này được niêm phong hằng đêm bằng tám con dấu, mỗi con dấu do một nhân vật lănh đạo thành phố trông coi. “Mỗi buổi sáng, nhà vua đều đến dâng lễ vật và cúng vái xá lợi”. Cách một nửa do tuần (yojana= 15 - 20 km) về phía Nam thành phố, nhà hành hương nh́n thấy cái hang mà Đức Phật dă lưu lại dấu vết. Ông nói rơ: “Các vị vua phái nhiều nghệ sĩ tài giỏi đến để vẽ lại hang này mà họ không làm nổi”. Pháp Hiển cũng ghi nhận nhiều điểm thánh tích và xá lợi khác nữa trong vùng gần đó.

Tại Áp-ga-nix-tăng, nơi ông đến được sau khi băng qua Safed Koh, có ba ngh́n tu sĩ Đại thừa và Tiểu thừa. Ở Bannu cũng có số tu sĩ đông như thế nhưng tất cả thuộc về Tiểu thừa. Băng qua Punjab, nhà hành hương đă đến nước Mathura sau khi đi qua nhiều tu viện với số tu sĩ ở đây được dân chúng và các quan chức triều đ́nh tôn vinh, họ đích thân phục vụ cho các tu sĩ trong những bữa ăn. “Vào cuối bữa ăn, họ trải thảm trên mặt đất rồi ngồi xuống quay về phía vị chủ tŕ chứ không dám ngồi trên trường kỷ khi có có mặt các tu sĩ” - Một kiểu săp xếp được truyền lại từ thời Đức Phật.

Sau đó, Pháp Hiển đi đến vương quốc Trung Bộ (the Middlw Kingdom) trái tim của đế chế Gupta. Phần mô tả thường được trích dẫn của ông về đất nước này thật ngắn gọn nhưng xác đáng: “Nước này có một khí hậu ôn ḥa, không có sươngv giá hay tuyết; người dân sung túc và an lạc, không phải đăng kư ǵ cả và cũng không có những hạn chế của chính quyền. Chỉ có những người cày đất của vua mới phải trả khá nặng trên phần lợi túc thu được. Ai muốn bỏ đi th́ cứ đi, ai muốn dừng lại th́ cứ dừng lại. Trong việc cai trị của ḿnh, nhà vua không dùng đến nhục h́nh, người phạm tội chỉ bị phạt tiền tùy theo mức độ nặng nhẹ. Cả đối với việc phản loạn lần thứ hai cũng chỉ bị chặt một bàn tay phải. Những người cận vệ của vua đều được trả lương cố định”. Tuy nhiên, trong phần c̣n lại th́ Pháp Hiển dường như áp dụng chung cho cả nước những ǵ ông đă ghi nhận được trong các tu viện, v́ ông khẳng định: “Khắp nước chẳng có một ai giết hại vật sống, cũng không có ai uống rượu hay ăn hành, ăn tỏi”. Ông c̣n nói: “Trong nước này, người ta không nuôi lợn hay gà, không có chuyện buôn bán gia súc, không có ḷ giết mổ hay tiệm rượu ngoài chợ”. Ông đặc biệt chú ư đến giới tiện dân (chandala) phải sống cách biệt, họ phải thông báo sự hiện diện của họ trên đường phố hoặc gần nơi chợ búa bằng cách gơ vào một thanh gỗ, và họ là giai cấp duy nhất có đi săn và buôn bán thịt. Vỏ ốc được dùng làm phương tiện hối đoái và những đóng góp cúng dường cho Tăng đoàn rất dồi dào, đă có từ lâu đời và rất được tôn trọng. “Các tu sĩ thường trú hay lưu động được cung cấp giường, nệm, thực phẩm, y áo một cách chu đáo và đâu đâu cũng đều như vậy cả”.

Sau đó, Pháp Hiển lần lượt đến thăm Sankasaya (Kapitha); Kanyakubja (Kanauj) - “thành phố của những cô gái lưng gù”; Sha-ki, Saketa hoặc Ayodhya; Sravasti (Xá-vệ) với Kỳ viên lót vàng (the Garden of Gold) nổi tiếng của nó, nơi mà nhiều phép lạ đă được biểu diễn và đă được nhà hành hương ghi chú dầy đủ; Kapilavastu (Ca-t́-la-vệ), thành phố của vua Tịnh Phạn, phụ vương của Đức Phật - “lúc này trông như một vùng hoang dă ngoại trừ một số tu sĩ và vài chục gia đ́nh”; Vaisali (Tỳ-xá-lị) (Besahr); nước Magadha (Ma-kiệt-đà) với Hoa-thị thành (Pataliputra), tại đây ông được thấy cung điện tuyệt vời của vua A-dục “được cất nên toàn bằng khí thế”. Ông hết lời ca ngợi Ma-kiệt-đà. “Trong tất cả các nước ở Trung Ấn th́ nước này có những đô thị, thành phố rộng lớn nhất. Dân chúng giàu có, thịnh vượng và đua nhau làm việc thiện, giúp đỡ láng giềng. Đều đặn hàng năm, đến ngày mồng tám tháng hai âm lịch, họ đều có lể rước tượng”. Ông nói đến các bệnh viện miễn phí ở các thành phố với rất nhiều khâm phục. Từ đây ông đă đi đến Nalanda (Bargaon), Rajagrha (Vương-xá) và Gaya - "một cảnh hoang dă hoàn toàn bên trong những bức tường”, nhưng xung quanh là những dấu tích thiêng liêng, tất cả đều đă được Pháp Hiển ghi nhận đầy đủ; Banaras (Ba-la-nại), kể cả Lộc Uyển (Vườn Nai - Deer Forest) ở Sarnath, nơi Đức Phật có b́a thuyết pháp đầu tiên, và cuối cùng là Kausambi với khu vườn Ghociranava, ngày nay mới được t́m thấy dưới cái tên Ghositarama. Tại nơi đây, ông ghi lại những ǵ ông được nghe nói về tu viện Paravata ở Deccan; đoạn mô tả này không đáng tin cậy và không phù hợp lắm với những sự kiện đă được biết.

Từ Baranas, Pháp Hiển quay trở lại Hoa-thị thành. Những ǵ ông ghi lại về cá nỗ lực của ḿnh để có được các bản viết tay kinh sách Phật giáo khá lư thú. Thường th́ các kinh sách này được truyền miệng từ thế hệ này qua thế hệ sau và chỉ ở điện Kỳ Viên (Garden of Gold) trong một tu viện Đại thừa ông mới “kiếm được một bản sao phù hợp với kinh sách đă được Nghị hội thứ nhất chấp nhận và đă được tu sĩ ở khắp nơi hành tŕ trong khi Đức Phật c̣n tại thế: -một câu nói mà các nhà nghiên cứu ngày nay không dễ chấp nhận. Pháp Hiển đă bỏ ra ba năm để: học viết, học nói tiếng Phạn (hoặc tiếng Pali) và chép lại các Giới luật”. Sau đó, ông đi đến Tamluk qua ngă Champa (Nam Việt Nam ngày nay) và ở lại đây “để chép kinh và vẽ tượng” trước khi lên đường đi Tích Lan trên đường trở về Trung Hoa.

Đi trên một chiếc thuyền buôn lớn, xuôi theo ngọn gió đầu mùa, ông đến Tích Lan chỉ sau mười bốn ngày và dành ra hai năm ở đây để thu thập và sao chép các kinh sách bằng tiếng Phạn chưa từng có tại Trung Hoa. Trong thời gian đầu ở tại ḥn đảo này, Pháp Hiển thấy nhớ nhà. “Ta ĺa xa đất tổ quê hưong đă nhiều năm rồi… Lại thêm những người cùng đi với ta nay đă rời bỏ ta - một số ở lại luôn trên các xứ này, một số khác th́ đă chết. Giờ đây, nh́n lại chỉ thấy bóng của ḿnh, ta thấy ḷng day dứt buồn, và khi t́nh cờ bên bức tượng Phật bằng ngọc bích ở tu viện Abhayagiri (Anuradhapura), nh́n thấy một thương nhân cúng dường một chiếc quạt bằng lụa trắng từ Trung Hoa đem sang, ḷng ta ngập tràn xúc cảm và không ngăn được mắt ḿnh đẫm lệ”. Pháp Hiển mô tả các chùa chiền, lễ hội ở đây và tŕnh bày chung về Phật giáo ở Tích Lan một cách hấp dẫn.

Từ Tích Lan, Pháp Hiển lên một chiếc thương thuyền khác chở được hai trăm người hoặc hơn, và c̣n kéo theo một chiếc thuyền nhỏ. Ra khơi được hai ngày th́ thuyền gặp một trận băo lớn kéo dài suốt mười ba ngày. Suốt thời gian này, Pháp Hiển chỉ tập trung nghĩ đến Quán Thế Âm Bồ tát (Kuan Yin, the Hearer of Prayers) và trao mạng sống của ḿnh vào tay những người theo đạo Thiên Chúa ở Trung Hoa. Ông c̣n sợ rằng các tay lái buôn có thể ném hết sách vở ảnh tượng của ḿnh ra khỏi tàu. Nhưng chẳng có chuyện ǵ xảy ra, tại gần một ḥn đảo, người ta t́m thấy một khe hở nhỏ trên thuyền, đă cho bít lại, rồi sau một đợt hành tŕnh nữa cũng bị điên đảo v́ giông băo suốt chín mươi ngày nữa họ đến được Java. Pháp Hiển ở lại Java năm tháng. Tại đây, ông thấy đạo Bà la môn (Brahmanism) đang phát triển “trong khi niềm tin ở đạo Phật th́ rất yếu ớt”. Rồi một thương thuyền khác với một hành tŕnh không kém gian nan và lê thê đă đưa ông về đến Quảng Châu (Ch’ing-chou) của Trung Hoa. Ông nghỉ lại đây một mùa đông và một mùa hè rồi lên đường về Nam Kinh (Namking), đến đây ông trao lại cho Tăng hội tất cả các sách kinh và Luật mà ông đă thu thập được.

Phần kết của tập kư sự đọc rất xúc động: “Pháp Hiển đă mất sáu năm để đi từ Trường An đến Trung Ấn, ở lại đay sáu năm và mất thêm ba năm nữa mới về đến Quảng Châu. Bần đạo đă đi qua tất cả gần ba mươi nước. Một ḷng v́ Tăng hội và Chánh pháp, nên đă trải qua bao nhiêu gian khổ, hiểm nguy, chẳng nghĩ ǵ đến thân mạng tự nghĩ là không quan trọng của ḿnh. Rất may là nhờ có sự độ tŕ che chở của Tam Bảo, bần đạo đă b́nh an về được đến quê nhà. Thế nên, Pháp Hiển đă ghi lại trên các thẻ tre và bản lụa câu chuyện chuyến đi để mong chia sẻ cùng các độc giả cao quư về những điều ít ai được biết đến này”.

 

Huyền Trang

Huyền Trang (Yuan Chwang) sinh ra tại Lạc Dương (Lo-yang) năm 602. Khi c̣n tám tuổi, Huyền Trang đă khiến thân phụ ông phải kinh ngạc v́ sự tuân thủ các lễ nghi Khổng giáo của ông, và xem ra ông sẽ trở thành một nhà văn học nổi tiếng theo kiểu truyền thống. Thế nhưng, câu chuyện người anh của ông vừa mới trở thành tu sĩ Phật giáo đă có một ảnh hưởng nơi ông và ông cũng đă có hạnh nguyện đi tu tại một tu viện ở Lạc Dương khi ông vừa đúng mười ba tuổi. Ông bắt đầu nghiên cứu nền triết học Ấn Độ và thông hiểu được những điều phức tạp của triết lư này. Vào năm 617, sự kết thúc triều đại nhà Tùy (Sui) đă đưa đất nước (Trung Quốc) vào sự hỗn loạn và cứ kéo dài như thế măi cho đến khi Đường Thái Tông nắm quyền cai trị đất nước sau một chuỗi dài những chiến thắng lẫy lừng bắt đầu từ năm 618, năm mà Huyền Trang phải lẫn tránh cảnh loạn lạc trong núi vùng Tứ Xuyên (Spu-ch’uan). Tuy nhiên, trong hoàn cảnh như thế, ông cũng đă nhanh chóng thông thuộc Phật pháp và đă có nhiều cuộc nói chuyện trước công chúng. Chẳng bao lâu sau, ông được tôn lên hàng đầu trong cuộc tranh luận về triết học tại những nơi kiến thức Phạn ngữ chiếm ưu thế, từ Deccan đến Nhật Bản, từ Turfan đến Sumatra. Trường An, kinh đô của triều đại mới, một trong những trung tâm Phật giáo quan trọng của miền Viễn Đông, trở thành trung tâm hoạt động của Huyền Trang từ năm 662. Nhưng chẳng bao lâu sau đó, ông thấy hoang mang v́ sự khác biệt quá nhiều giữa các trường phái và những mập mờ về giáo lư, nên đă quyết tâm đi đến các nước Tây phương để lĩnh hội chân lư từ các bậc thức giả tại đây, giải tỏa những điều c̣n thắc mắc của ḿnh.

Nhưng khi ông xin phép rời khỏi Trung Hoa th́ hoàng đế nhà Đường không cho. Tuy nhiên, một ḷng tin tưởng vào sự độ tŕ của chư Thánh thiêng liêng, vị tu sĩ dũng cảm vẫn kiên tŕ với kế hoạch của ḿnh, đến năm hai mươi sáu tuổi ông mới bắt đầu cuộc hành tŕnh. Khi ấy, ông là một thanh niên cao lớn, khôi ngô, giống như phần đông những người miền Bắc Trung Hoa. Mọi người can ngăn ông v́ những khó khăn phức tạp có thể xảy ra, nhưng họ đều phải cảm phục sự gan dạ điềm tĩnh của ông và đă ra sức giúp ông. Huyền Trang lên đường một cách bí mật, ban ngày nghỉ, ban đêm mới đi. Ảo ảnh và ma quỷ thường xuyên hiện ra để cản trở ông; gần một đồn lũy biên pḥng ông bị nhắm bắn và suưt vong mạng v́ một mũi tên. Mặc dù thế, ông vẫn một ḿnh băng qua sa mạc, chẳng có ǵ chỉ đường đường ngoại trừ chính cái bóng của ḿnh, và đă đến được Ha-mi. Tại đây ông nhận được lời mời của vua nước Turfan (khi ấy có tên là Kao-ch’ang) một Phật tử sùng đạo.

Turfan ở vùng trung tâm của sa mạc Gobi, ngày nay hầu như đă hoàn toàn biến mất hẳn, khi ấy đang rộn ràng với một cuộc sống kinh tế, chính trị và văn hóa sôi động của những người dân theo đạo Phật, nói tiếng bản địa Tocharian. Vua nước này, Ch’u-Wen-tai (620-40) có nguồn gốc Trung Hoa, ông ta là chư hầu của Đại Hăn nước Thổ Nhĩ Kỳ và có nhiều quan hệ với Đường Thái Tông (T’ai-tsung). Lời mời của ông đối với Huyền Trang là một mệnh lệnh và nhà hành hương gần như bị đưa tới Turfan bằng vũ lực. Là một Phật tử sùng đạo nhưng có phần lỗ măng, Ch’u-Wen-tai, mặc dù hiếu khách và kính trọng đối với Huyền Trang, đă có ư định giữ Huyền Trang lại trong triều của ḿnh để làm người đứng đầu Tăng hội: “Trẫm muốn giữ ngươi lại để tỏ ḷng ngưỡng mộ, ư trẫm đă quyết không thể chuyển dời, điều ấy c̣n khó hơn là chuyển núi Thái Sơn”. Huyền Trang kiên cường đáp lại: “Hạ thần v́ Chánh Pháp thiêng liêng mà đến đây, bệ hạ có thể giữ lại nắm xương của thần, nhưng không thể có quyền lực ǵ đối với linh hồn hay ư chí của thần”. Ông nhất định làm y như thế, không hề động đến thức ăn suốt ba ngày, Nhà vua lo sợ và phải chiều theo ư của ông. Đạo sư đồng ư ở lại thêm một tháng nữa để thuyết pháp tại triều đ́nh. Hết hạn một tháng, nhà vua để cho ông đi với lời giới thiệu đến các vị vua trên đường ông đi qua kể cả với Đại Hăn Thổ Nhĩ Kỳ, người có quyền uy đến tận quan ải Ấn Độ. Huyền Trang không c̣n là một người lánh nạn không tên tuổi, âm thầm lẫn trốn mà là một người khách hành hương được công nhận chính thức với một địa vị hẳn hoi. Ông được cung cấp đầy đủ mọi thứ trên quăng đường c̣n lại dẫn đến Ấn Độ.

Từ Turfan, ông đi đến Kara-shahr, cũng là một thành phố nổi tiếng Tocharian, với khoảng, với khoảng mười tu viện và hai ngh́n tu sĩ phái Tiểu thừa. Dân chúng ở đây rất thân thiện với Huyền Trang nhưng không thân thiện với đoàn tùy tùng Turfan của ông, nên ông chỉ nghĩ lại một đêm ở đây rồi đi đến Kucha, đây có lẽ là thành phố quan trọng nhất của Trung Á thời đó và là một tiền đồn của Ấn Độ, nhưng cũng chịu ảnh hưởng của Iran nữa. Sự phồn thịnh về vật chất và nền văn minh sáng chói của đất nước này khiến cho Huyền Trang rất cảm phục. Những khám phá khảo cổ học của thế kỷ 20 đă giúp cho các nhà nghiên cứu có thể tái tạo nhiều cảnh tượng, trong đó có thể có sự tham dự của Đạo sư này. Nhưng Kucha chỉ là một ốc đảo trong sa mạc Gobi, chịu sự ḍm ngó bốn bề của người Thổ Nhĩ Kỳ và Mông Cổ, cho nên lớp người cai trị ở đây bắt buộc phải là những chiến binh. Ngai vàng ở Kucha vẫn do một ông vua Tocharian nắm giữ, đó là Suvarna-deva, con trai và là người kế vị của Suvarnapuspa. Trong vương quốc này, có 5.000 tu sĩ được nhà vua nhiệt t́nh che chở. Vua nước này có quan hệ ngoại giao với hoàng đế nhà Đường. Tại Kucha, Huyền Trang có những cuộc tranh luận tôn giáo với các tu sĩ Tiểu thừa vốn không sẵn sàng tiếp nhận bộ Du già luận (Yoga-sastra) mà Huyền Trang đưa ra. Thế nhưng, dị biệt này không gây ra bất ḥa giữa họ và Huyền Trang vẫn giữ được mối liên hệ thân thiết với trưởng lăo Moksagupta của Kucha trong thời gian hai tháng mà ông bắt buộc phải ở thêm lại đây v́ thời tiết. Khi ông rời đi, nhà vua cấp cho ông nhiều tôi tớ, lạc đà, ngựa, cả một đoàn lữ hành và tiễn chân ông đến tận ngoại ô thành phố cùng các tu sĩ và Phật tử của thành phố theo sau.

Hai ngày sau, khi rời khỏi Kucha, Huyền Trang gặp phải một toán cướp trên đường đi, rồi đến những băng hà trên triền dốc của ngọn Thiên Sơn (T’ien-Shan). Những cảnh này đă được ông mô tả một cách sinh động, trước cả những nhà dại thám hiểm gần đây. Huyền Trang tiếp tục đi đến vùng hồ nước nóng Issiq-Kul, nơi đây vị Đại Hăn của miền Tây Thổ Nhĩ Kỳ đang đóng quân. Lúc đó là đầu năm 630. Ông vua này không phải là không có kiến thức về tôn giáo và đă thiên về Phật giáo vốn là tôn giáo mà cá tiên đế của ông năm mươi năm trước đă được một vị tu sĩ tên là Jinagupta, từ Gandhara đến truyên dạy. Vị Đại Hăn này đă thiết lập quyền thống trị đến tận Gandhara. Ông đối xử với Huyền Trang rất trọng vọng, mời Đạo sư đến dùng bữa với viên đặc sứ Trung Hoa và sứ thần của nước Turfan, dọn cho ông các “thức ăn chay” gồm bánh gạo, kem, sữa, đường kính, mật ông và nho. Vào cuối bữa ăn, Đạo sư giải thích các nguyên tắc đạo pháp của ḿnh và vị Đại Hăn Thổ Nhĩ Kỳ hân hoan nói là ông ta tin tưởng chấp nhận giáo lư đó. Sau khi cố gắng can ngăn đạo sư đừng tiếp tục hành tŕnh nữa nhưng không được, ông chính thức bảo trợ cho đạo sư trên lộ tŕnh đến Ấn Độ, nhờ đó Huyền Trang có thể dễ dàng vượt qua các khe núi Pamirs và Bactria.

Samarquand, tên cũ là Marakanda, là một đô thị cổ và thế kỷ thứ bảy. Đây là kinh đô của nước Sogdiana và là trạm dừng chân quan trọng tiếp theo của Huyền Trang. Đây là chặng cuối của lộ tŕnh lữ hành giữa Ấn Độ và Trung Hoa, và có nhiều hàng hóa quư hiếm. Thành phố này dao động giữa đạo thờ Lửa (Bái Hỏa giáo) và đạo Phật. Cuộc viếng thăm của Đạo sư Huyền Trang đă cải thiện rất nhiều t́nh trạng đạo Phật ở vương quốc Thổ Nhĩ Kỳ - Iran này. Ông triệu tập một hội nghị trong đó ông đă truyền giới cho một số tu sĩ và phục hồi lại các tu viện cũ để có nơi tu hành. Từ Sâmrquand, nhà hành hương đi về phía Nam, trên những con đường đèo núi hiểm trở, cho đến khi đến được “Thiết Môn” (Gates of Iron), ranh giới phía Nam của đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ, ở cuối con đường khe núi mà đến ngày nay vẫn c̣n là đường đi của các đoàn lữ hành qua lại giữa Samarquand và con sông Oxus.

Phía Nam Thiết Môn, Huyền Trang vượt sông Oxus, vào đất Bactria khi ấy dưới quyền cai trị của vua Tardu Shad, con trai của vị Đại Hăn nước Thổ Nhĩ Kỳ và là anh rễ ông vua nước Turfan, vốn cũng là người sùng mộ đạo Phật. Bactria có lẽ đă tiếp nhận Phật giáo từ rất lâu, vào thời các đoàn truyền giáo của vua A-dục. Khi Huyền Trang đến, hoàng hậu người Turfan vừa mới mất, Tardu Shad gần như nạp ngay tức khắc một hoàng hậu khác, nhưng bà này lại yêu con trai của chồng hơn là yêu chồng nên đă đầu độc nhà vua và đưa t́nh nhân lên ngôi. Vị vua sau này thân thiết với Huyền Trang và mời đạo sư đến viếng Balkh, thành phố kinh đô, trước khi đi về phía Nam. BalkhBactria vẫn c̣n lại nhiều tu viện mặc dù những đổ nát do rợ Hung Nô (Hun) gây nên vào thế kỷ thứ năm và thứ sáu. Dù rằng các tu viện này đều thuộc Tiểu thừa nhưng đạo sư vẫn có quan hệ thân thiện với họ và theo lời ông kể th́ ông rút ra nhiều điều bổ ích qua những buổi tṛ chuyện với một trong những học giả của họ là Prajnakara. Sau đó, nhà hành hương đă hết sức gian nan vượt qua vượt qua dăy núi Hindu Kush và đến Bamiyan, một trạm dừng chân quan trọng hàng đầu trên trên đường từ Trung Á đến Ấn Độ. Các nhà khảo cổ ngày nay đều phải khâm phục sự chính xác của đoạn mô tả Huyền Trang về cảnh trí ở đây. Ông nói: “Về phía Bắc, nơi này dựa vào bờ đá dốc đứng. Xứ này có trồng bắp mùa đông nhưng chỉ một số ít trổ bông và ra trái. Mamiyan thích hợp cho việc chăn nuôi gia súc nên có rất nhiều cừu và ngựa. Khí hậu rất lạnh. Phong tục tập quán c̣n thô sơ. Quần áo làm bằng lông thú và sợi len thô, đây cùng là sản phẩm của xứ này”. Có mười ngôi chùa Phật giáo với vài ngh́n tu sĩ trong chùa. Huyền Trang có đề cập đến các hang động nổi tiếng và hai bức tượng Đức Phật khổng lồ cao khoảng 50 mét và 35 mét, nhưng không hiểu v́ sao lại không nói đến các bức bích họa gây nhiều chú ư ngày nay. Bề mặt mạ vàng của một trong hai pho tượng Phật lớn khiến ông nghĩ rằng tượng làm bằng đồng.

Huyền Trang rời Bamiyan để đi Kapisa qua con đèo Shihar hiểm trở cao 2.800 mét. Trên đèo này, ông gặp một cơn lốc xoáy và bị lạc đường nhưng rồi t́m lại được nhờ sự giúp đỡ của các thợ săn tại chỗ. Kapisa (nay là làng Begram ở phía bắc Kabul) chế ngự các con đường thương mại quan trọng giữa Ấn Độ và Bactria. Nơi này có rất nhiều loại hàng hóa, Vua xứ này là một Phật tử Đại thừa sùng đạo. Để làm vui ḷng Prajnakara, người bạn đồng hành từ Balkh đến đây, Huyền Trang vào ở trong một tu viện Tiểu thừa, nhưng theo yêu cầu của nhà vua, ông đă tham dự một hội nghị của nhiều tông phái khác nhau, kéo dài trong năm ngày. Sau khi trải qua mùa hè năm 630 tại đây, ông lại lên đường đi về phía Đông và đă đến Jalalabad, ngày trước là Nagarahara, qua ngả Lampaka. Đến đây, ông mới đứng trên đất Ấn Độ thực sự và đă ghi lại xác đáng sự tương phản giữa vùng đất núi non với những con người mạnh khỏe tráng kiện mà ḿnh đă đi qdua và vùng đồng bằng nắng ấm với những con người mảnh mai, khoan ḥa. Ông nói: “Ở Lampaka, đát đai thích hợp cho việc trồng lúa và đă sản xuất được nhiều mía… Khí hậu khá êm dịu. Có một ít sương giá nhưng không bao giờ có tuyết… Người dân sống trong sung túc, an lạc và thich hát ca. Ngoài ra, họ là những người yếu ớt, nhu nhược và quen thói lừa lọc… Họ có vóc dáng thấp bé, cử chỉ hăm hở, mạnh mẽ. Phần đông họ mặc quần áo bằng vải trắng và ưa tô điểm y phục của ḿnh bằng những đồ trang sức lấp lánh, sặc sỡ”. Vùng đất Hy Lạp - Phật giáo giàu truyền thống nghệ thuật này đă phải thống khổ dưới bàn tay Hung Nô và giờ đây chỉ c̣n lại những tu viện và công tŕnh nghệ thuật đổ nát. Sự xâm chiếm của người Ả Rập hai mươi năm sau đó đă giáng thêm một đ̣n chí mạng. Từ nơi này, Huyền Trang mạo hiểm rẽ vào một con đường đầy trộm cướp để chiêm bái cái hang mà Đức Phật sau khi dẹp yên Naga Gopala đă lưu lại dấu vết. ông có một đoạn mô tả sự hồi hộp về cuộc gặp gỡ của ông với các tên cướp, và về sự ban phép màu của ông trong hang, một tấm gương đáng kể về sự can đảm, kiên tŕ và niềm tin.

Từ Lampaka, nhà hành hương đi vào Gandhara qua ngả đèo Khyber. Đây là một thánh địa thứ hai của Phật giáo, nơi này đă có sự phát triển của nghệ thuật suốt gần sáu thế kỷ mà không có một gián đoạn nào dưới ảnh hưởng của Hy Lạp - La Mă. Peshawar, kinh đô của Kanishka, là nơi đă sản sinh ra Vô Trước (Asanga) và Thế Thân (Vasubandhu), hai đại luận sư Ấn Độ mà Huyền Trang từng nghe nói đến nhiều. Nhưng khi ông đến Peshawar th́ nơi đây đă phải trải qua sự tàn phá của Hung Nô giống như các nơi khác. Ông buồn bă ghi lại: “Ḍng dơi hoàng gia đă bị xóa sạch và nước này bị sáp nhập vào vương quốc Kapisa. Phố làng gần như trống vắng và hoang tàn, chỉ c̣n được thấy có một số ít dân cư. Góc hoàng thành (Peshawar) có khoảng một ngh́n gia đ́nh… Vô số chùa chiền Phật giáo trong cảnh điêu tàn và hoang phế. Các chùa này đêu bị cỏ mọc um tùm và mang một vẻ cô liêu đến năo ḷng. Phần lớn các tháp cũng bị đổ nát”. Huyền Trang cố gắng đi thăm hầu hết các địa điểm thiêng liêng, đến nỗi ông dă rời khỏi con đường chính đi vào Ấn Độ để đi chệch về phía Bắc, đến tận vùng núi non Udyana (hay Uddiyana) là nơi chịu sự tàn phá nặng nề hơn cả Gandhara do những cuộc đột nhập của rợ Hung Nô. Nước này đă từng có 1.400 tu viện với 18.000 tu sĩ là luôn luôn đi theo đạo Phật. Dân chúng ở đây được chia làm hai phái Đại thừa và Tiểu thừa, dù rằng Phật giáo Đại thừa đang có xu hướng đi theo Mật tông. Rời Uddiyana và Gandhara, đạo sư vượt sông Indus tại Udabhanda (hay Udakakhanda) Phía bắc Attock và đến thăm Taksasila, ở đây cũng có nhiều tu viện bị rợ Hung Nô tàn phá. Từ đây, ông đi một đoạn nữa th́ đến Kashmir nơi Phật giáo c̣n thịnh hành. Vẫn c̣n độ một trăm tu viện với 5000 tu sĩ và đất nước này vẫn c̣n yêu mến nhớ về các vị vua A-dục, Ca-ni-sắc-ca. Nhà vua ở Kashmir tiếp đón nhà hành hương một cách rất trọng thể trong kinh thành Pravarapura (Srinagar). Tại đây, Huyền Trang được gặp một học giả Đại thừa khả kính bảy mươi tuổi và qua vị này, Huyền Trang đă có thể tiếp nhận được triết học Phật giáo ở dạng thuần khiết nhất. Ông ở lại Kashmir hai năm, kể từ tháng 5 năm 631 đến tháng 4 năm 633, nghiên cứu giáo lư và sao chép các bộ kinh, bộ luận Phật giáo để mang về nước.

Từ Kashmir đi xuống, trạm dừng chân đầu tiên của ông là Sakala (Sialkot), nơi đóng đô của hoàng đế Hy Lạp Menander ngày xưa và của bạo chúa Hung Nô Mahirakula (hay Mihirakula) gần đây, đây cũng là nơi trú ngụ của đại luận sư Thế Thân hai trăm năm trước khi Huyền Trang đến. Sau đó, trên đường đi đến Cinabhukti trên tả ngạn sông Beas, ông đă suưt rơi vào một bọn cướp và rồi gặp được một bà lăo Bà la môn có học qua giáo lư đạo Phật Trung Quán tông. Đạo sư sống ở Cinabhukti một năm, đến năm 634 th́ đi về Jalandhara trong mùa mưa. Sau đó, ông đi đến Mathura nổi tiếng về truyền thống Hindu và nghệ thuật Phật giáo. Có thể đoán là đạo sư đă được dịp chiêm ngưỡng bức tượng Phật đứng nổi tiếng, một tuyệt tác của nghệ thuật Gupta, ngày nay được trưng bày tại Viện bảo tàng quốc gia New Delhi. Từ Mathura, Huyền Trang đi ngược ḍng sông Yamuna để lên đến tận Sthanesvara ở Kuruksetra; các nhà nghiên cứu ngày nay cùng đồng ư rằng phần nói về nơi này của đạo sư cho thấy ông đă gợi nhắc trận chiến Mahabharata và tinh thần của bản Thế Tôn ca (Bhagavadita). Đi về phía Đông, ông đến vùng thượng lưu sông Hằng và nhận thấy ở đây sự chiến thắng của Ấn Độ giáo (Hinduism) cùng sự sá sút của tôn giáo ḿnh. Ông đến thăm Kapitha (tên cũ là Sankasya) và giống như Pháp Hiển, ông đă được chứng kiến các phép lạ ở nơi này. Dù đă ở lại vài tháng tại Kanyakybja, nơi vua Harsa đặt thủ phủ phía Bắc của ông nhưng đạo sư đă không gặp được nhà vua khi ấy đang đi về phương Đông và sau đó đă trở thành người bạn thân và thí chủ lớn của đạo sư. Huyền Trang nói về vua Harsa với sự ngưỡng mộ sâu xa: “Nhà vua cai trị với sự công bằng và ḷng nhân đạo. Nhà vua quên ăn quên uống để lo việc thiện”. Tuy nhiên, nói chung chúng ta nghĩ rằng Huyền Trang đă nói thái quá về khuynh hướng Phật giáo của nhà vua cũng giống như thi sĩ Bana của triều đ́nh đă nói quá đáng về xu hướng Saiva (thờ thần Siva) của nhà vua, mà thực ra th́ giống như nhiều ông vua Ấn Độ khác, nhà vua dường như phải giữ sự chừng mực giữa các tôn giáo khác nhau trong vương quốc của ḿnh. Sau khi thăm viếng Ayodhya và trên đường đi đến Prayag dọc theo sông Hằng, đạo sư bị rơi vào tay một đám thủy tặc thờ thần Durga, chúng muốn giết ông để tế nữ thần của chúng, nhưng nhờ sự can đảm, sự tụng niệm và một trận giông băo kỳ lạ kịp thời đă giúp cho chuyến hành tŕnh của đạo sư không phải kết thúc một cách quá sớm. Tại Prayag, ông lại đau ḷng nhận thấy số tín đồ Phật giáo quá ít, rồi ông đi tiếp đến Kausambi, tại đây ông được chỉ cho xem các kỷ vật về cuộc viếng thăm của Đức Phật, về bút tích của ngài Thế Thân, về cuộc đời của ngài Vô Trước, dù rằng cũng như mọi nơi khác, đạo Bà la môn đang phát triển mạnh hơn.

Đến đây, đạo sư quyết tâm đến chiêm bái nơi đản sinh của Đức Phật không chút chần chừ nên đă quay về hưóng Bắc. Trước tiên, ông đi đến Xá-vệ (Sravasti), thôn Sahet-Mahet trên hữu ngạn sông Rapti, nơi này gần như không c̣n người ở vào thời điểm ấy, nhưng đầy những thánh tích và hoài niệm. Sau đó, ông đến Ca-t́-la-vệ (Kapilavastu), thành phố quê hương của Đức Phật với vườn Lâm-t́-ni (Lumbini) nơi Đức Phật đản sinh, rồi viếng Ramagrama và cuối cùng là Kusinagara (tức là Kasia, trên hữu ngạn đoạn giữa sông Gandak) nơi Đức Phật nhập niết bàn. Tất cả các địa điểm này đều đă được các nhà khảo cổ học ngày nay t́m ra gần đầy đủ và điều này đem lại một ư nghĩa sinh động cho lời tường thuật của nhà hành hương về những ǵ ông đă được thấy, được nghe. Từ đây, Huyền Trang men theo một con đường rừng đi thẳng tới Ba-la-nại (Banaras), một thánh địa đối với tín đồ Ấn Độ giáo cũng như tín đồ Phật giáo.

Phần mô tả Ba-la-nại của Huyền Trang nghe thật tân kỳ. “Phần đông thờ thần Siva. Một số cạo hết tóc, một số khác quấn khăn trên đỉnh đầu. Ở đây có một số người (tín đồ Kỳ Na giáo) th́ khỏa thân, một số khác chà tro lên người hoặc áp dụng những kiểu hành xác tàn bạo để mong thoát khỏi luân hồi…”. Ông có nói đến một bức tượng thần Siva khổng lồ “trông thật hùng vĩ, uy nghi”. Tại Sarnath hẳn là ông đă thấy bức tượng Đức Phật ngồi xoay chuyển bánh xe Chánh Pháp, “sự thể hiện thuần túy nhất của tinh thần Gupta” trong nghệ thuật. Thành phố này chứa đầy những truyền thuyết nhẹ nhàng và kỳ diệu. Từ Ba-la-nại, nhà hành hương đi thêm về phía Bắc để đến Tỳ-xá-lị (Vaisali), thành phố của kỹ nữ Amrapali nổi tiếng, người đă dâng tặng vườn xoài cho Tăng đoàn; Tỳ-xá-lị cũng là nơi đă diễn ra Nghị hội kết tập thứ hai của Phật giáo một trăm năm sau ngày Đức Phật diệt độ.

Ma-kiệt-đà (Magadha) ở phía nam Bihar là vùng đất thiêng thực sự của Phật giáo, là nơi quan trọng nhất đối với nhà hành hương. Hoa-thị thành (Pataliputra), kinh đô của nước này, trung tâm điểm của hai đế quốc lớn trong quá khứ, đă bị mục nát và nhà hành hương nh́n thấy cảnh điêu tàn của nh́êu cung điện, tu viện, chỉ c̣n sót lại hai hay ba ṭa nhà mà thôi. Ông mô tả lại với sự xúc động sâu xa cuộc hành tŕnh từ Hoa-thị thành đến Bodh Gaya, nơi Đức Phật đắc đạo và tại đây từng tấc đất đều đă chứng kiến những sự kiện thiêng liêng. Huyền Trang không chỉ là một triết gia xuất sắc, tinh thông giáo lư mà c̣n là một con người giàu ḷng thương cảm trào dâng trong khắp đoạn kể về cuộc viếng thăm của ông đến các thành địa này. Về phía đông bắc của Bodh Gaya là Nalanda, viện đại học quốc tế đại của thời ấy. Những sự mô tả cặn kẽ của Huyền Trang về ṭa kiến trúc đồ sộ này, với sự cúng dường rộng răi của nhiều thế hệ vua chúa và quư tộc, đă được xác minh chắc chắn qua các cuộc khai quật gần đây. Có mười tu viện thật lớn với những khoảng trống ở giữa chia ra làm tám sân nhỏ, tất cả nằm trong bờ thành bằng gạch. Có mười ngh́n tu sĩ, tất cả đều theo phái Đại thừa. Ngoài kinh sách Phật giáo, họ c̣n hăng say nghiên cứu kinh Vệ Đà, y học, toán học, khoa học huyền bí và các môn phổ thông khác. Đứng đầu viện đại học này là thượng tọa Giới Hiền (Silabhadra), môn đệ trực tiếp của các ngài Vô Trước và Thế thân. Vị thượng tọa cao niên này là sự tổng gộp thành quả sau cùng của bảy thế kỷ tư tưởng của người Ấn Độ. Trước đó ít lâu, ông đă có một giấc mộng báo trước cho ông sự đến đây của một cao tăng người Trung Hoa, thế nên ông đa đón tiếp Huyền Trang với sự trọng vọng và vị khách hành hương đă dành ra mười lăm tháng ở tại đây để nghiên cứu Duy Thức tông (hay Du già hành tông) mà sau đó ông đă viết thành cuốn sách có tên là Siddhi (Tất địa). Ông cũng nghiên cứu triết học Bà la môn và hoàn thiện kiến thức Phạn ngữ của ḿnh. Ông chỉ ngưng việc nghiên cứu một thời gian ngắn để đi chiêm bái Vương-xá (Rajagrha) lừng lẫy ngày xưa, nơi đă diễn ra Nghị hội kết tập lần đầu tiên ngay sau khi Đức Thế Tôn nhập diệt. Rời khỏi Nalanda, Huyền Trang trong thời gian năm 638 đă sống tại Bengal và Champa (miền Nam Việt Nam ngày nay), sau cùng ông đến Tamralipti, định lên thuyền đi Tích Lan để nghiên cứu về Phật giáo Tiểu thừa ở đây.

Tamralipti là một trung tâm thương mại lớn vào thời ấy và nhà hành hương hẳn đă được gặp nhiều thủy thủ cùng thương nhân từ phương Đông đến; ông đă mô tả sơ lược nhưng chính xác các khu vực Hindu tại Đông Dương (Indo-China). Một vài tu sĩ từ phương Nam đến bảo với Huyền Trang rằng từ Nam Ấn đi Tích Lan rất gần, không cần ǵ phải mạo hiểm với một cuộc hành tŕnh dài ngày trên biển. Ông nghe theo lời khuyên và thu xếp lên đường đi về phái Nam, đến Kancipuram qua ngả Orissa, Mahakosala, vùng đất của ngài Long Thọ (Nagarjuna) và Thánh Thiên (Arya Deva), cũng là vùng đất của cậu bé người sói Mowgli trong truyện của Kipling, qua các xứ Andhara và Telugu-Goda. Nhận xét của ông về người dân và t́nh h́nh chính trị tại các nước này rất xác đáng. Có lẽ ông đă trải qua mùa mưa năm 639 tại Amaravati và đến Kanci năm 640. Ở đây ông hay tin rằng nước Tích Lan đang loạn lạc, một cuộc nội chiến đang hoành hành và ông đă đành phải bỏ ư định đi thăm đảo quốc này. Ông quay trở về phía Bắc qua trở về phía Bắc qua ngả Tây Deccan, hẳn là đă gặp Pulakesin II, hoàng đế vĩ đại của Badami Chalakya tại Nasik (641), và đă viếng Bharukaccha (Bharooch) cùng Valabhi. Tại đây, ông được biết nhiều điều về nước Iran khi nước này sắp bị đạo Hồi xâm chiếm và những h́nh ảnh mà ông phác họa về đế chế Sassanid ngay trước khi nó sụp đổ là một tư liệu lịch sử có giá trị to lớn.

Sau đó thăm vùng Sindh và thành phố Multan ở phía Tây, Huyền Trang quay về phía Đông, ở lại một lần nữa tại viện Nalanda và các vùng lân cận, nơi các học giả vĩ đại của phái Đại thừa như Jayasena. Sau khi đă đi chiêm bái hết các thánh địa, đạo sư dành toàn bộ thời giờ cho việc nghiên cứu. Ông quan tâm đến nhiều vấn đề và đă có được một kiến thức bách khoa quảng bá. Ông thường tham dự các cuộc tranh luận về triết học và đă vạch rơ những sai lầm của các tín ngưỡng khác. Nhưng đầu óc ông luôn luôn nghĩ đến chuyện quay về Trung Hoa để trao cho đất nước ḿnh những kiến thức thu thập được và ông đă khước từ yêu cầu của các tu sĩ ở Nalanda muốn ông đừng rời bỏ họ. Các vị vua ở Ấn Độ đă nghe nói về tài năng lớn của đạo sư Trung Hoa và Bhaskaravarman, vua nước Assam (Kamrup) đă triệu thỉnh ông vào triều. V́ thế ông đă đến đây và những ghi nhận của ông về nước Assam thật chính xác. Chẳng bao lâu sau, vua Harsa Vardhana lại gửi lời tới vua nước Assam vốn là bạn bè và cũng là chư hầu của ông ta, để mời Huyền Trang đến doanh trại riêng của ông trên sông Hằng. Thế là họ cùng đến đó và được sự đón tiếp nồng nhiệt của vua Harsa đang rất nóng ḷng v́ sự đến trễ của họ. Năm 634, Huyền Trang tham dự hai hội nghị lớn do Harsa triệu tập tại Kanauj và Prayag mà chúng ta có được sự mô tả chi tiết của Huyền Trang cùng các nhà viết tiểu sử của ông, dù rằng những điều ấy tất nhiên không khỏi phiếm diện. Theo những sự tường thuật này th́ vua Harsa đă phải khó khăn lắm mới bảo vệ được học giả Đại thừa này trước khí thế tranh luận của những tín đồ thuộc các tín ngưỡng khác, đặc biệt là các tín đồ Bà la môn. Các quy định khắc khe nhằm bóp nghẹt tự do ngôn luận đă gây ra sự căm phẫn và thậm chí tánh mạng của nhà vua cùng nhà hành hương cũng bị đe dọa. Đây là sự tường thuật mà chúng ta không có điều kiện kiểm chứng. Nghị hội tại Prayag là cuộc họp mặt thường lệ năm năm một lần, trong đó nhà vua ban phát hết ngân quỹ tích lũy được. Đây là hoạt động cuối cùng khiến Huyền Trang hoăn lại việc về nước của ông. Vua Harsa đă không ngăn cản được ông, và đành miễm cưỡng nói lời từ biệt. Sau khi dừng lại hai tháng mùa mưa trong vùng Bắc Kanauj, Huyền Trang đi ngang qua Punjab bằng ngă Jalandhar và Taksasila, theo hướng ngược lại với hướng đă đi trước đây mười năm của ḿnh. Vượt sông Indus vào đầu năm 644, tại Udabhanda (Und), ông gặp các vị vua của Kapisa và Kashmir. Vua Kapisa giúp ông thu góp được tại Uddiyana những bản sao mới của những cuốn sách ông đă bị mất trong khi vượt sông Indus. Ông ngụ lại trong một tu viện ở Nagarahara một thời gian.

Sau đó, ông vượt qua dăy Hindu Kush hết sức khó khăn mặc dù có sự giúp đỡ của vua nước Kapisa, ngoài ra một vị vua Thổ Nhĩ Kỳ đă cấp cho ông một đoàn hộ tống để vượt qua dăy Pamirs. Tập kư sự của ông ở đây có nhiều truyện kể kỳ lạ và những cuộc phiêu lưu rùng rợn. Ông đă nhận xét xác đáng nguồn gốc Ấn Độ của nền văn minh ở các nước Trung Á. Ông đi qua Kashgar, Yarkand và Khotan, tại đây, ông đă phải ở lại bảy, tám tháng kể từ tháng chín năm 644, trong thời gian này ông bổ khuyết các bản thảo bị mất trong khi vận chuyển và đợi phép của triều đ́nh để trở lại đất nước mà ông đă bỏ đi mười năm trước đó không cần phép tắc. Những ghi nhận của ông về các địa phương đi qua cho thấy thật rơ những thay đổi về địa dư đă xảy ra từ ngày Pháp Hiển đă đến đây. Sau khi nghỉ lại một thời gian tại Đôn Hoàng, ông đến Trường An vào mùa xuân năm 645 và đă được các quan chức cùng các tu sĩ ở kinh đô tiếp đón thật long trọng. Vài ngày sau, ông đến bái kiến Đường Thái Tông tại Lạc Dương. Không những sự ra đi lén lút trước đây của ông được tha thứ mà ông đă trở thành một vị anh hùng lúc này, đem lại vinh quang cho Đường triều. Đích thân nhà vua đă khen ngợi ông đă v́ sự giải thoát và sự an lạc của mọi người mà không quản ngại phiêu lưu sinh mạng của ḿnh. Ông từ chối tước vị đại thần nhà vua ban cho, sống quăng đời c̣n lại của ḿnh trong tu viện xây cất trong hoàng cung dành cho ông và các dịch giả của ông làm việc, và họ đă chuyển sang chữ Hán sáu trăm cuốn sách tiếng Phạn mang từ Ấn Độ về. Đường Thái Tông băng hà tháng bảy năm 649, vị vua kế vị cũng rất tử tế nhưng sự lui tới hoàng cung Huyền Trang trở nên thưa thớt dần và ông càng ngày càng chuyên chú hơn vào việc dịch thuất và thuyết pháp. Ông biết ḿnh không c̣n sống lâu nữa và ông đă viên tịch một cách yên lành, măn nguyện vào năm 664, với ư thức rằng ḿnh đă sống một cuộc đời lương hảo với một mục đích cao cả.

 

Nghĩa Tịnh

Nghĩa Tịnh (I-tsing) mới được khoảng mười tuổi khi Huyền Trang trở về Trung Hoa nhưng ông đă tự chuẩn bị cho ḿnh một cuộc sống tu sĩ Phật giáo. Ông được chấp nhận vào Tăng chúng khi được mười bốn tuổi. Dù đă nuôi ư định đi đến Ấn Độ từ năm 652, nhưng măi cho đến năm ba mươi bảy tuổi (năm 671) ông mới thực hiện được điều này. Ông rời xa xứ sở trong hai mươi lăm năm (671-695) và đă đi qua hơn ba mươi nước. Sau khi quay về Trung Hoa năm 695, ông đă dịch 56 tác phẩm trong số khoảng 400 tác phẩm ông đă mang về, trong thời gian từ năm 700 đến 712. Ông qua đời năm 713 ở tuổi bảy mươi chín.

Cả hai lần đi và về ông đều theo đường biển. Các cuộc hành tŕnh của ông không có sự đa dạng và chủ đích khoa học như của Huyền Trang, nhưng lại quan tâm nhiều đến con người. Trong chuyến ra đi (năm 671), ông đă ở lại tám tháng tại Sumatra, sáu tháng tại Srivijaya - một quốc gia vùng biển đang phát triển (nay là Palembang) và hai tháng tại Mă Lai. Ông lên bộ tại Tamralipti vào năm 673 và từ đó Ma-kiệt-đà (Magadha), thánh địa hàng đầu, rồi đến chiêm bái Bodh Gaya cùng các thánh địa khác. Ông sống mười năm tại tu viện đại học Nalanda, nghe bài giảng của các tiến sĩ về giáo pháp và thu thập kinh sách. Có nhiều người cùng đi với ông, những người này về sau ông phải viết về chuyện về họ và ông đă phải xa họ vào năm 685, mà không bao giờ c̣n gặp lại nữa, khi ông rời khỏi Ấn Độ cũng bằng ngă Tamralipti. Ông sống bốn năm tại Sri-vijaya trau dồi Phạn ngữ để sau này dịch kinh sách; vào năm 689 ông trở lại Trung Hoa để t́m cộng sự viên cho công việc của ḿnh rồi sau năm năm nữa ở Srivijaya, cuối cùng ông đă trở về Trung Hoa vào năm 695. Cũng giống như Huyền Trang trước đó, triều đ́nh rất quan tâm đến chuyến đi của ông và đă tổ chức một cuộc đón tiếp đầy đủ nghi thức.

Một trong các cuốn sách của Nghĩa Tịnh, “Ghi nhận về đạo Phật tại Ấn Độ và quần đảo Mă Lai” (A Record of the Buddhist Religion as practised in India and the Malay Archipelago), đă được một học giả Nhật Bản, J. Takakusu, dịch ra Anh ngữ. Hầu như được chú ư hơn là cuốn “Hồi kư về cá tu sĩ xuất chúng đi t́m Chánh Pháp ở phương Tây” (Memoirs on the Eminent Monks who went in Search of the Law in the Western Countries), hiện có một bản tiếng Pháp do Chavannes dịch. Sách cho ta một ư niệm khá rơ về sự sốt sắng tận tụy của những người hành hương mà số lượng đông hơn ta tưởng, về tinh thần chấp nhận sự hiểm nguy của họ. Thực vậy, đây là một chuỗi dài buồn thảm về các câu chuyện đầy những biến cố lâm ly, cả trên bộ lẫn dưới biển. Nghĩa Tịnh đă ngậm ngùi nói: “Tuy có thành công nhưng con đường đây những gian nan. Vùng Thánh địa thật quá xa vời và bao la. Trong số đông những người toan tính, có mấy người đạt được kết quả thực sự, có mấy người hoàn thành được nhiệm vụ của ḿnh. Những sa mạc mênh mông đầy sỏi đá của Vùng Đất Voi (Ấn Độ), những ḍng sông lớn chói chang ánh sáng mặt trời dội sức nóng thiêu đốt, hoặc những vực sâu, những đợt sóng cao ngất. Khi đi trên bộ một ḿnh bên kia Thiết Môn giữa Samarquand và Bactria, người ta lạc vào giữa hàng ngh́n ngọn núi, dễ rơi xuống đáy vực từ những vách đá dựng đứng; khi đi thuyền đơn độc bên kia trụ Đồng (phía Nam của Tongking) th́ phải băng qua vô số vùng châu thổ và có thể bị thiệt mạng. V́ thế cho nên trong số năm chục người ra đi th́ số sống sót trở về chỉ đếm trên đầu ngón tay”. Nhiều tu sĩ Triều tiên đă đi Ấn Độ, phần đông băng qua vùng Trung Á, một số đi đường biển. Nghĩa Tịnh nói về họ: “Họ đă chết tại Ấn Độ, không bao giờ được thấy lại xứ sở của ḿnh”. Thực tế, con đường Trung Á đă ngày càng trở nên gay go sau sự suy yếu của nhà Đường và sự nổi dậy của người Tây Tạng, chưa kể đến sự nhập cuộc của người Ả Rập Hồi giáo không lâu sau đó.

Đi theo đường biển, các nhà hành hương nh́n thấy Ấn Độ đón họ từ hai bên đường. Dấu ấn của nền văn minh Ấn Độ trên vùng Đông Dương và Inđônêxia không nằm ngoài sự nhận xét của Nghĩa Tịnh và ông khuyên mọi người nên dừng lại Srivijaya một thời gian để trau dồi Phạn ngữ trước khi đến Ấn Độ. Trong thời gian này có sự trao đổi thường xuyên về tư tưởng, sách vở và sản phẩm nghệ thuật giữa Ấn Độ với Tích Lan và Java, Campuchia, Champa cùng các hải cảng của Quảng Đông, Trung Hoa.

Như thế, trong thời kỳ sáng chói này của lịch sử Á châu, các đoàn hành hương trong triều Đại Đường đă tạo nên sự gắn bó chặt chẽ hơn giữa Viễn Đông và Ấn Độ qua các chuyến đi và công việc dịch thuật Giáo điển của họ.

 

CHƯƠNG 11|