The Atthaka Vagga[1] is a set of sixteen poems on the theme of non-clinging. The poems cover all four types of clinging — clinging to sensuality, to views, to practices and precepts, and to doctrines of the self — with a special emphasis on the first two. They describe what constitutes the nature of the clinging in each particular case, the drawbacks of the clinging, the advantages of abandoning clinging, ways to abandon clinging, and the subtle paradoxes of what it means not to cling.

Kinh Atthaka Vagga[1] gồm mười sáu bài thơ về chủ đề không dính mắc. Những bài thơ đề cập đến tất cả bốn loại dính mắc– dính mắc vào cảm xúc, quan điểm, thực hành và giới luật, và giáo lý về ngã – đặc biệt nhấn mạnh vào hai loại đầu. Kinh mô tả những gì tạo nên bản chất của sự dính mắc trong từng trường hợp cụ thể, những hạn chế của sự dính mắc, những ưu điểm của việc từ bỏ sự dính mắc, những cách để từ bỏ sự dính mắc, và những nghịch lý vi tế về ý nghĩa của việc không dính mắc.

This last point is touched on in many discourses in the Pali canon, as the Buddhist teachings on non-clinging all contain a central paradox: the objects of clinging that must ultimately be abandoned form part of the path to their abandoning. A certain amount of sensual pleasure is needed in the path to go beyond sensual pleasure; Right View is needed to overcome attachment to views; a regimen of precepts and practices is needed to overcome attachment to precepts and practices; a strong sense of self-responsibility is needed to overcome attachment to doctrines of the self.[2] Other passages in the Pali canon offer clear analogies to explain these paradoxes, often in terms of movement toward a goal — taking a raft across a river, walking to a park, taking a series of relay coaches from one city to another — in which the motive and means of transport are abandoned on reaching the goal. The Atthaka, however, sometimes presents these paradoxes in as mystifying a manner as possible. In fact, some of the paradoxes — particularly in the discussions of abandoning clinging to views — are stated in terms so stark that, on the surface, they are hard to reconcile with teachings in other Pali discourses or with other passages in the Atthaka itself. The question is thus whether these paradoxes should be taken at face value or further interpreted. Or, to put the question in terms used by the Buddha himself (AN 2.25): Is their meaning, as stated, already fully drawn out or does it have to be inferred? Readers of the poems have offered arguments for both sides.

Điều cuối là giáo lý về Ngã được đề cập đến trong nhiều bài giảng trong kinh điển Pali, vì giáo lý Phật giáo về không dính mắc trọng tâm đều chứa đựng một nghịch lý: các đối tượng của sự dính mắc mà cuối cùng phải được diệt trừ, là một phần của con đường dẫn đến sự từ bỏ chúng. Cần phải có một sự hài lòng của các giác quan trên con đường vượt qua khoái cảm nhục dục; Chánh kiến là cần thiết để vượt qua sự dính mắc vào quan điểm; cần phải có một qui củ giới luật và sự tu tập để vượt qua sự dính mắc vào giới luật và thực hành; cần có ý thức chịu trách nhiệm mạnh mẽ để vượt qua sự dính mắc với các học thuyết về tự ngã. [2] Những bài kinh khác trong kinh điển Pali đưa ra những so sánh rõ ràng để giải thích những nghịch lý này, thường là về sự chuyển động hướng tới mục tiêu. — đi bè qua sông, đi bộ đến công viên, bắt một loạt chuyến xe tiếp sức từ thành phố này sang thành phố khác - trong đó động cơ và phương tiện vận chuyển bị loại bỏ khi đạt được mục tiêu. Tuy nhiên, Atthaka đôi khi trình bày những nghịch lý này theo cách càng huyền bí càng tốt. Trên thực tế, một số nghịch lý – đặc biệt trong các cuộc thảo luận về việc từ bỏ dính mắc vào quan điểm — được trình bày bằng những thuật ngữ rõ ràng đến mức, nhìn bề ngoài, chúng khó có thể dung hòa với những lời dạy trong các bài kinh Pali khác hoặc với những đoạn khác trong chính Atthaka. Do đó, câu hỏi đặt ra là liệu những nghịch lý này nên được hiểu theo đúng giá trị bề ngoài hay được giải thích thêm. Hoặc, đặt câu hỏi theo thuật ngữ được chính Đức Phật sử dụng ((AN 2.25 - Tăng Chi Bộ - Kinh Giải Nghĩa)): Ý nghĩa của chúng, như đã nêu, đã được rút ra đầy đủ hay phải được suy ra? Người đọc bài thơ đã đưa ra những lý lẽ cho cả hai bên.

The argument for taking the paradoxes at face value is based on a major assumption: that the Atthaka is historically prior to the rest of the Pali canon. From this assumption, the argument goes on to conclude that these poems contain the earliest recorded teachings of the Buddha, and that if they conflict with other passages in the Canon, that is simply because those other passages are less true to the Buddha's original message. This argument, however, contains several weaknesses. To begin with, only two pieces of evidence are offered for the relative age of these poems: (1) the Atthaka Vagga, as a set, is mentioned at three other points in the Canon, at Ud V.6, Mv. V, and SN 22.3;[3] and (2) the language of the poems is more archaic than that of the other discourses. However, neither piece of evidence can carry the weight of what it's supposed to prove. The first piece shows simply that an Atthaka Vagga predates the three passages in question, not necessarily that the Atthaka Vagga as we have it predates the entire remainder of the Canon. As for the archaic nature of the language, that is common to a great deal of the poetry throughout the Pali canon. Just as Tennyson's poetry contains more archaisms than Dryden's prose, the fact that a Pali poem uses archaic language is no proof of its actual age.

Lập luận cho việc coi những nghịch lý theo đúng giá trị bề ngoài dựa trên một giả định chính: rằng Atthaka về mặt lịch sử có trước của kinh điển Pali.Từ giả định này, cuộc tranh luận đi đến kết luận rằng những bài thơ này chứa đựng những lời dạy sớm nhất được ghi lại của Đức Phật, và rằng nếu chúng mâu thuẫn với những đoạn khác trong Kinh điển, thì đó đơn giản là vì những đoạn khác đó ít đúng với thông điệp ban đầu của Đức Phật. Tuy nhiên, lập luận này có một số điểm yếu. Để bắt đầu, chỉ có hai bằng chứng được đưa ra về niên đại tương đối của những bài thơ này: (1) Atthaka Vagga, như một bộ, được đề cập ở ba điểm khác trong Kinh điển, tại Ud V.6, Mv. V, và SN 22.3;[3] và (2) ngôn ngữ của các bài thơ cổ xưa hơn các ngôn ngữ khác.Tuy nhiên, không bằng chứng nào có thể mang lại sức nặng cho những gì nó phải chứng minh. Phần đầu tiên chỉ đơn giản cho thấy rằng Atthaka Vagga có trước ba đoạn kinh được đề cập, không nhất thiết là Atthaka Vagga như chúng ta thấy có trước toàn bộ phần còn lại của Kinh điển. Về bản chất cổ xưa của ngôn ngữ, điều đó phổ biến ở phần lớn thơ ca trong kinh điển Pali. Cũng như thơ của Tennyson chứa đựng nhiều cổ điển hơn văn xuôi của Dryden, việc một bài thơ tiếng Pali sử dụng ngôn ngữ cổ xưa không phải là bằng chứng về niên đại thực sự của nó.

The arguments for taking the Atthaka's paradoxes at face value contain other weaknesses as well. They commonly state that the paradoxes teach a view of no views and a practice of no goals, yet the people who advance this argument are the first to admit that such doctrines are totally impractical. These doctrines are also inconsistent with other passages in the Atthaka itself, such as the clear-cut view explaining the sources of conflict, presented in Sn 4.11, and the frequent references to Unbinding (nibbana/nibbuti) as the goal of the practice. Thus even if the Atthaka is appreciably older than the other Pali discourses, we would have to assume gross inconsistencies in its message if we were to take its paradoxes at face value.

Những lập luận ủng hộ nghịch lý của Atthaka theo bề ngoài cũng chứa đựng những điểm yếu khác. Họ thường tuyên bố rằng những nghịch lý dạy về một quan điểm không có quan điểm và cách thực hành không có mục tiêu, tuy nhiên những người ủng hộ lập luận này là những người đầu tiên thừa nhận rằng những học thuyết như vậy là hoàn toàn phi thực tế. Những học thuyết này cũng mâu thuẫn với những đoạn khác trong chính Atthaka, chẳng hạn như quan điểm rõ ràng giải thích các nguồn gốc của xung đột, được trình bày trong Sn 4.11, và những đề cập thường xuyên đến Giải thoát (nibbana/nibbuti) là mục tiêu của việc thực hành. Vì vậy, ngay cả khi Atthaka có lịch sử lâu đời hơn đáng kể so với các kinh điển Pali khác, chúng ta sẽ phải thừa nhận sự mâu thuẫn hoàn toàn trong thông điệp của nó nếu chúng ta coi những nghịch lý của nó theo bề ngoài.

The argument that the meaning of the Atthaka's paradoxes must be inferred — that they were intentionally stated in obscure terms — is based on firmer ground. To begin with, this is the interpretation that Buddhist tradition has advanced from its earliest centuries. An extended commentary, entitled the Mahaniddesa (Nd.I), reconciling the content of the poems with the teachings in the rest of the discourses, was compiled early enough to be included in the Canon itself. Although some of the explanations given in the Mahaniddesa may seem a little too pat and pedantic, they make clear the point that Buddhists near the time of the Buddha found many useful levels of meaning below the surface level of the poems.

Lập luận cho rằng ý nghĩa của những nghịch lý trong Atthaka phải được suy ra - rằng chúng được cố tình nêu ra bằng những thuật ngữ khó hiểu - điều này dựa trên cơ sở vững chắc hơn.Đầu tiên, đây là cách giải thích rằng truyền thống Phật giáo đã phát triển từ những thế kỷ đầu tiên. Một bình luận mở rộng, có tựa đề Mahaniddesa (Nd.I), dung hòa nội dung của các bài thơ với những lời dạy trong phần còn lại của các bài kinh, đã được biên soạn đủ sớm để được đưa vào chính Kinh điển. Mặc dù một số lời giải thích được đưa ra trong Mahaniddesa có vẻ hơi quá nhẹ nhàng và mang tính mô phạm, nhưng chúng làm rõ quan điểm rằng những Phật tử gần thời Đức Phật đã tìm thấy nhiều cấp độ ý nghĩa hữu ích bên dưới mức độ bề ngoài của các bài thơ.

Even if we disregard arguments from tradition, there are other good reasons for maintaining that the meaning of the Atthaka's paradoxes was designed to be inferred. To begin with there is the question, already mentioned, of the internal consistency of the poems themselves: they make better sense, when taken as a whole, if the paradoxes are explored for meanings not obvious on the surface. A prime example is the passage toward the beginning of Sn 4.9, in which the Buddha seems to be saying that an awakened person would regard purity as being found neither by means of views, precepts and practices, etc., nor through lack of views, precepts and practices, etc. Magandiya, the Buddha's listener, states understandably that such a teaching is confused. Readers who have acquired a taste for Mahayana non-dualities, and who would take the Buddha's statement at face value, might scoff at Magandiya's narrow-mindedness. But, if the words are taken at face value, Magandiya would be right, for there are many passages in the Atthaka that recommend views, precepts, and practices as part of the path to purity. However, if we take the Buddha's statements as puns on the instrumental case — which can be interpreted not only as "through" or "by means of," but also as "in terms of" or "in connection with," the Buddha's statements to Magandiya make sense in and of themselves, and fit with the rest of the Atthaka: an awakened person would not define purity in terms of views, precepts and practices, etc., but would also realize that purity cannot be attained through a lack of these things.

Ngay cả khi chúng ta bỏ qua những lập luận từ truyền thống, vẫn có những lý do chính đáng khác để khẳng định rằng ý nghĩa nghịch lý trong Atthaka được thiết kế để suy luận. Đầu tiên là câu hỏi, đã được đề cập, về tính nhất quán bên trong của chính các bài thơ: chúng có ý nghĩa hơn, khi xem xét một cách tổng thể, nếu những nghịch lý được khám phá vì những ý nghĩa không rõ ràng trên bề mặt. Một ví dụ điển hình là đoạn đầu của kinh Sn 4.9, trong đó Đức Phật dường như đang nói rằng một người giác ngộ sẽ coi sự thanh tịnh không được tìm thấy nhờ quan điểm, giới luật và thực hành, v.v., cũng không phải do thiếu quan điểm, giới luật và thực hành, v.v. Trong Kinh Magandiya, người nghe Đức Phật, nói một cách dễ hiểu rằng giáo lý như vậy là sai lầm. Những độc giả đã yêu thích tính bất nhị của Đại thừa và những người coi lời tuyên bố của Đức Phật theo bề ngoài có thể chế giễu lối suy nghĩ hẹp hòi của kinh Magandiya. Tuy nhiên, nếu xét theo bề ngoài thì kinh Magandiya sẽ đúng, vì có nhiều đoạn trong Atthaka khuyến khích quan điểm, giới luật và thực hành như một phần của con đường dẫn đến thanh tịnh. Tuy nhiên, nếu chúng ta coi những lời tuyên bố của Đức Phật là cách chơi chữ trong trường hợp công cụ - điều này có thể được hiểu không chỉ là “thông qua” hay “bằng phương tiện”, mà còn là “theo nghĩa” hoặc “liên quan đến” những lời tuyên bố của Đức Phật. đối với kinh Magandiya, tự nó có ý nghĩa và phù hợp với phần còn lại của Atthaka: một người giác ngộ sẽ không định nghĩa sự thanh tịnh bằng quan điểm, giới luật và thực hành, v.v., nhưng, những thứ này, cũng sẽ nhận ra rằng sự thanh tịnh không thể đạt được nếu thiếu sự thanh tịnh.

A second reason for regarding the paradoxes as requiring interpretation is that, in their use of puns and grammatical word-play, they follow an ancient Indian genre — the philosophical enigma — that by its very nature called for extensive interpretation. Evidence in the Rig Veda shows that ancient Vedic ritual included contests in which elder brahmans used puns and other word-play to express philosophical teachings as riddles that contestants were then challenged to solve.[4] The purpose of these contests was to teach the contestants — usually students studying to become ritual experts — to use their powers of ingenuity in thinking "outside the box," in the justified belief that the process of searching for inspiration and being illuminated by the answer would transform the mind in a much deeper way than would be achieved simply by absorbing information. [5]

Lý do thứ hai cho rằng những nghịch lý cần được giải thích là vì trong cách chơi chữ và chơi chữ theo ngữ pháp, chúng tuân theo một thể loại cổ xưa của Ấn Độ - bí ẩn triết học - mà bản chất của nó đòi hỏi phải có sự giải thích rộng rãi. Bằng chứng trong Rig Veda cho thấy rằng nghi lễ Vệ Đà cổ đại bao gồm các cuộc thi trong đó những người Bà La Môn lớn tuổi sử dụng lối chơi chữ và cách chơi chữ khác để diễn đạt những lời dạy triết học như những câu đố mà các thí sinh sau đó được thử thách giải.[4] Mục đích của những cuộc thi này là để dạy các thí sinh - thường là những sinh viên đang học để trở thành chuyên gia nghi lễ - sử dụng khả năng khéo léo của mình để suy nghĩ "ngoài khuôn khổ", với niềm tin chính đáng rằng quá trình tìm kiếm nguồn cảm hứng và được soi sáng bởi câu trả lời. sẽ biến đổi tâm trí một cách sâu sắc hơn nhiều so với việc đạt được chỉ bằng cách tiếp nhận thông tin. [5]

Although the Atthaka poems advise against engaging in intellectual contests, they imitate the Vedic enigmas in the way they use language to challenge the reader. Individual words — sometimes whole lines and stanzas — in the poems can be interpreted in a variety of ways, and it's up to the reader to explore and consider all the various meanings to decide which ones are most helpful. Although our culture associates word-play with jokes, the Atthaka stands at the head of a long line of Buddhist texts — both Theravada and not — that use word-play with a serious purpose: to teach the reader to think independently, to see through the uncertainties of language and so to help loosen any clinging to the structures that language imposes on the mind.[6] This type of rhetoric also rewards anyone who takes the text seriously enough to re-read and re-think what it has to say.

Mặc dù các bài kệ Atthaka khuyên không nên tham gia vào các cuộc thi trí tuệ, nhưng chúng bắt chước những điều bí ẩn của Vệ Đà trong cách sử dụng ngôn ngữ để thách thức người đọc. Các từ riêng lẻ - đôi khi là cả dòng và khổ thơ kệ - trong bài kệ có thể được diễn giải theo nhiều cách khác nhau và người đọc có quyền khám phá và xem xét tất cả các ý nghĩa khác nhau để quyết định xem ý nghĩa nào hữu ích nhất. Mặc dù văn hóa của chúng ta liên kết việc chơi chữ với những trò đùa, Atthaka đứng đầu trong một dòng kinh văn dài Phật giáo - cả Nguyên thủy và không phải Nguyên thủy - sử dụng cách chơi chữ với mục đích nghiêm túc: dạy người đọc suy nghĩ độc lập, nhìn thấu suốt. sự không chắc chắn của ngôn ngữ và do đó giúp nới lỏng mọi sự bám víu vào các cấu trúc mà ngôn ngữ áp đặt lên tâm trí.[6] Kiểu hùng biện này cũng mang lại lợi ích cho bất kỳ ai xem xét kinh văn đủ nghiêm túc để đọc lại và suy nghĩ lại những gì trong kinh nói.

Thus, the obscurity of some of the Atthaka's language can be regarded as a function, not of the poems' age, but of the genre to which they belong. The proper reading of a text like this requires that you question your assumptions about its message and clarify the intention behind your efforts at reaching an understanding. In this way, the act of reading is meant not only to inform but to transform. The more you give to it, the more it opens up new possibilities in the mind.

Thật vậy, sự không rõ ràng trong một số ngôn ngữ của Atthaka có thể được coi là một chức năng, không phải do thời đại của các bài kệ, mà là do thể loại mà chúng thuộc về. Việc đọc đúng một bản kinh văn như thế này đòi hỏi bạn phải đặt câu hỏi về các giả định của mình về thông điệp của kinh và làm rõ ý định đằng sau nỗ lực đạt được sự hiểu biết của bạn. Bằng cách này, hành động đọc không chỉ có ý nghĩa cung cấp thông tin mà còn có ý nghĩa biến đổi. Bạn càng cống hiến nhiều thì càng mở ra những khả năng mới trong tâm trí.

Translating word-play of this sort presents enormous challenges; even when those challenges are surmounted, the act of reading such word games in translation can never be quite the same as reading them in the original language and cultural setting. Fortunately, aside from the more controversial passages, much of the Atthaka is perfectly straightforward — although Ven. Maha Kaccana's commentary on one of the simpler verses in IV.9 should serve as warning that even the straightforward passages can contain hidden meanings. In passages where I have detected multiple meanings, I've included all the detected meanings in the translation — although I'm sure that there are instances of double meanings that I haven't detected. Wherever the Pali seems ambiguous, I've tried to use English equivalents that convey the same ambiguity. Wherever this has proven beyond my abilities, I've resorted to explanatory notes. I have also used the notes to cite interpretations from the Mahaniddesa and other passages from earlier parts of the Canon that help explain paradoxes and other obscure points — both as an aid to the serious reader and as a way of showing that the gulf assumed to separate the Atthaka from the rest of the discourse collection is more imagined than real.

Việc dịch cách chơi chữ kiểu này đặt ra những thách thức to lớn; ngay cả khi những thách thức đó được vượt qua, hành động đọc những trò chơi chữ như vậy trong bản dịch không bao giờ có thể hoàn toàn giống với việc đọc bằng ngôn ngữ gốc và bối cảnh văn hóa. May mắn thay, ngoài những đoạn gây tranh cãi, phần lớn Atthaka hoàn toàn đơn giản - mặc dù lời bình luận của Ngài Maha Kaccana về một trong những bài kệ đơn giản hơn trong IV.9 sẽ đóng vai trò cảnh báo rằng ngay cả những bài kệ đơn giản cũng có thể ẩn chứa những ý nghĩa ẩn giấu. Trong những đoạn văn mà tôi phát hiện ra nhiều nghĩa, tôi đã đưa tất cả các nghĩa được phát hiện vào bản dịch - mặc dù tôi chắc chắn rằng có những trường hợp có nghĩa kép mà tôi chưa phát hiện ra. Bất cứ chỗ nào tiếng Pali có vẻ mơ hồ, tôi đều cố gắng sử dụng những từ tương đương trong tiếng Anh để truyền tải sự mơ hồ tương tự. Bất cứ khi nào điều này vượt quá khả năng của tôi, tôi đều dùng đến những ghi chú giải thích. Tôi cũng đã sử dụng những ghi chú này để trích dẫn những diễn giải từ của kinh Mahaniddesa và những bài kệ khác từ những phần trước của Kinh điển nhằm giúp giải thích những nghịch lý và những điểm khó hiểu khác - vừa là sự trợ giúp cho người đọc nghiêm túc vừa là một cách chứng tỏ rằng vực sâu được coi là tách biệt. Atthaka từ phần còn lại của tuyển tập bài giảng mang tính chất tưởng tượng hơn là thực tế.

Two final notes on reading the Atthaka:

Hai điều lưu ý cuối cùng khi đọc Atthaka:

1. Although these poems were originally composed for an audience of wandering, homeless monks, they offer valuable lessons for lay people as well. Even the passages referring directly to the homeless life can be read as symbolic of a state of mind. Ven. Maha Kaccana's commentary, mentioned above, shows that this has been done ever since canonical times. Addressing a lay person, and commenting on a verse describing the behavior of a sage who has abandoned home and society, he interprets "home" as the khandhas and "society" as sense impressions. Thus in his hands the verse develops an internal meaning that lay people can apply to their lives without necessarily leaving their external home and society. Other verses in the poems can be interpreted in similar ways.

1. Mặc dù những bài kệ này ban đầu được sáng tác dành cho độc giả là những tu sĩ lang thang, không nhà, nhưng chúng cũng mang lại những bài học quý giá cho người tại gia. Ngay cả những bài kệ đề cập trực tiếp đến cuộc sống vô gia cư cũng có thể được coi là biểu tượng của một trạng thái tâm hồn. Bình luận của Ngài Maha Kaccana, được đề cập ở trên, cho thấy rằng điều này đã được thực hiện kể từ thời kinh điển. Khi nói chuyện với một cư sĩ và bình luận về một bài kệ mô tả hành vi của một bậc thánh nhân đã từ bỏ gia đình và xã hội, ngài giải thích “gia đình” là các uẩn và “xã hội” là những ấn tượng giác quan. Do đó, trong tay ngài, câu thơ phát triển một ý nghĩa nội tại mà người tại gia có thể áp dụng vào cuộc sống của mình mà không nhất thiết phải rời bỏ ngôi nhà và xã hội bên ngoài của mình. Những câu kệ khác trong bài Atthaka cũng có thể được diễn giải theo cách tương tự.

2. The poems center on descriptions of sages (muni) and enlightened people (dhira), but these words don't have fixed meanings from verse to verse. In some contexts, they denote arahants; in others, nothing more than intelligent run-of-the-mill people. So be alert to context when reading descriptions about sages and enlightened people, to see whether they're describing people following the path or those who have already reached the goal.

2. Bài kệ tập trung vào việc mô tả các nhà hiền triết (muni) và những người giác ngộ (dhira), nhưng những từ này không có ý nghĩa cố định từ câu này sang câu khác. Trong một số bối cảnh, chúng biểu thị các vị A-la-hán; ở những nơi khác, không gì khác hơn là những người thông minh tầm thường. Vì vậy, hãy chú ý đến ngữ cảnh khi đọc những mô tả về các bậc thánh nhân và những người giác ngộ, để xem liệu họ đang mô tả những người đi theo con đường đạo hay những người đã đạt được mục tiêu.

KINH TIỂU BỘ TẬP I
Khuddhaka Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt - Phật Lịch 2543 - 1999
Kinh Tập (Sutta Nipata)
Kinh Văn Chương Bốn - Phẩm Tám – Atthaka vagga| The Octet Chapter đọc tại đây

Kinh Về Dục - Kama Sutta

Kinh Hang Động tám kệ - Guhatthaka Sutta

Kinh Sân Hận tám kệ - Dutthatthaka Sutta

Kinh Thanh Tịnh tám kệ - Suddhatthaka Sutta

Sn 4.5 Kinh Tối Thắng tám kệ - Paramatthaka Sutta

Sn 4.6 Kinh Già - Jara Sutta

Sn 4.7 Kinh TissaMetteyya - Tissa Metteyya Sutta

Sn 4.8 Kinh Pàsura - Pasura Sutta

SN 4.9 Kinh Màgandiya - Magandiya Sutta

Sn 4.10 Kinh Trước khi bị hủy hoại - Purabheda Sutta

Sn 4.11 Kinh Tranh Luận - Kalaha-vivada Sutta

Sn 4.12 Kinh Những vấn đề nhỏ bé - Cula-viyuha Sutta

SN 4.13 Kinh Những vấn đề to lớn - Maha-viyuha Sutta

Sn 4.14 Kinh Tuvataka (Con đường mau chóng) - Tuvataka Sutta

Sn 4.15 Kinh Chấp Trượng - Attadanda Sutta

Sn 4.16 Kinh Xá Lợi Phất - Sariputta Sutta

KINH TIỂU BỘ TẬP I
Khuddhaka Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt - Phật Lịch 2543 - 1999
Kinh Tập (Sutta Nipata)
Kinh Văn Chương Bốn - Phẩm Tám – Atthaka vagga| The Octet Chapter đọc tại đây

Kinh Về Dục - Kama Sutta

Kinh Hang Động tám kệ - Guhatthaka Sutta

Kinh Sân Hận tám kệ - Dutthatthaka Sutta

Kinh Thanh Tịnh tám kệ - Suddhatthaka Sutta

Sn 4.5 Kinh Tối Thắng tám kệ - Paramatthaka Sutta

Sn 4.6 Kinh Già - Jara Sutta

Sn 4.7 Kinh TissaMetteyya - Tissa Metteyya Sutta

Sn 4.8 Kinh Pàsura - Pasura Sutta

SN 4.9 Kinh Màgandiya - Magandiya Sutta

Sn 4.10 Kinh Trước khi bị hủy hoại - Purabheda Sutta

Sn 4.11 Kinh Tranh Luận - Kalaha-vivada Sutta

Sn 4.12 Kinh Những vấn đề nhỏ bé - Cula-viyuha Sutta

SN 4.13 Kinh Những vấn đề to lớn - Maha-viyuha Sutta

Sn 4.14 Kinh Tuvataka (Con đường mau chóng) - Tuvataka Sutta

Sn 4.15 Kinh Chấp Trượng - Attadanda Sutta

Sn 4.16 Kinh Xá Lợi Phất - Sariputta Sutta

Notes

1.
The name of the Atthaka (Octets) derives from the fact that the first four poems in the set — three of which contain the word atthaka in their titles — are composed of eight verses. From this fact, some scholars have argued that these four poems constitute the original collection, and that the other poems are later additions, but this is not necessarily the case. Many of the vaggas (chapters) in the discourse and Vinaya collections are named after the first few members of the chapter, even though the remaining members may contain material that differs radically from what would be suggested by the title of the chapter. Thus there is no way of knowing the relative ages of the different poems in the collection.
2.
For a discussion of the four types of clinging, see The Mind Like Fire Unbound, chapter 3.
3.
Ven. Maha Kaccana — praised by the Buddha as foremost among his disciples in his ability to draw out the meaning of concise statements — is mentioned in connection with the Atthaka in all three locations. As a well-educated brahman, he would have been trained in detecting and resolving philosophical enigmas. His personal reputation indicates that he enjoyed doing so.
4.
On this point, see Willard Johnson's book, Poetry and Speculation of the Rig Veda, Berkeley: University of California Press, 1980.
5.
By the Buddha's time, these contests had left the ritual arena and had become public philosophical debates much closer to our current notion of a formal debate. However, they were driven by an assumption — derived from the belief in the spiritual transformation that accompanied the correct solution of the philosophical enigma — that holding a winning view was, in and of itself, the measure of a person's high spiritual attainment. The paradoxes in the Atthaka attack this assumption by — paradoxically — making use of the genre of philosophical enigma from which it ultimately derived.
6.
Other examples of such word-play in the Pali canon include SN 1.1 and Dhp 97. For more modern examples of Buddhist texts using word play with a serious purpose, see A Heart Released and The Ballad of Liberation from the Khandhas, both by Phra Ajaan Mun Bhuridatto.

See also: "Parayana Vagga (The Chapter on the Way to the Far Shore): An Introduction," by the same author.

Ghi Chú

1.
Tên kinh Aṭṭhaka (Octets) xuất phát từ bốn câu kệ đầu tiên trong bộ - ba trong số đó có từ Aṭṭhaka trong tựa đề - gồm có tám câu. Từ việc này, một số học giả đã lập luận rằng bốn bài kệ này là tập thơ gốc, còn những bài kệ khác là phần bổ sung sau này, nhưng điều này không nhất thiết phải như vậy. Nhiều phẩm trong kinh và bộ sưu tập Luật tạng được đặt theo tên của một số thành viên đầu tiên của chương, mặc dù những thành viên còn lại có thể chứa tài liệu hoàn toàn khác với những gì được gợi ý bởi tiêu đề của chương. Vì vậy không có cách nào biết được niên đại tương đối của các bài kệ khác nhau trong tuyển tập.
2.
Thảo luận về bốn loại bám víu, xem The Mind Like Fire Unbound, chapter 3.
3.
Ngài Maha Kaccana (Tôn giả Ca-Chiên-Diên)– được Đức Phật ca ngợi là vị đệ nhất thuyết giảng rộng rãi về khả năng rút ra ý nghĩa của những thuyết giảng ngắn gọn – được đề cập liên quan đến Aṭṭhaka ở cả ba địa điểm. Là một Bà-la-môn được giáo dục tốt, hẳn Ngài đã được đào tạo để phát hiện và giải quyết những bí ẩn triết học. Danh tiếng cá nhân của Ngài cho thấy Ngài thích làm như vậy.
4.
Về điểm này, xem cuốn sách của Willard Johnson, Thơ ca và suy đoán của Rig Veda, Berkeley: Nhà xuất bản Đại học California, 1980.
5.
Vào thời Đức Phật, những cuộc tranh luận này đã được dẹp bỏ trong các nghi lễ và trở thành những cuộc tranh luận triết học công khai gần gũi hơn với khái niệm hiện tại của chúng ta về một cuộc tranh luận chính thức. Tuy nhiên, họ bị thúc đẩy bởi một giả định - xuất phát từ niềm tin vào sự biến đổi tâm linh đi kèm với lời giải chính xác của bí ẩn triết học - rằng việc nắm giữ một quan điểm chiến thắng tự nó là thước đo cho mức độ đạt được tinh thần cao của một người. Những nghịch lý trong Atthaka phản bác giả định này bằng cách - một cách nghịch lý - sử dụng thể loại bí ẩn triết học mà cuối cùng nó bắt nguồn từ đó.
6.
Các ví dụ khác về cách chơi chữ như vậy trong kinh điển Pali bao gồm SN 1.1 and Dhp 97.. Để biết thêm các ví dụ hiện đại hơn về kinh văn Phật giáo sử dụng cách chơi chữ với mục đích nghiêm túc, hãy xemsee A Heart Released and The Ballad of Liberation from the Khandhas, cả hai được viết bởi Phra Ajaan Mun Bhuridatto.

See also: "Parayana Vagga (The Chapter on the Way to the Far Shore): An Introduction," by the same author.

webmasters: Nguyễn Văn Hoà & Minh Hạnh

 | | trở về đầu trang | Home page |