^^^ |
(Như kinh 8 ở trên, cho đến... là người ở rừng ở các trú xứ vắng...) |
“A mendicant is faithful, but not ethical. … they’re not learned. … they’re not a Dhamma speaker … they don’t frequent assemblies … they don’t teach Dhamma to the assembly with assurance … they’re not an expert in the training … they don’t stay in the wilderness, in remote lodgings … they don’t have direct meditative experience of the peaceful liberations that are formless, transcending form … they don’t realize the undefiled freedom of heart and freedom by wisdom in this very life, and live having realized it with their own insight due to the ending of defilements. So they’re incomplete in that respect, and should fulfill it, thinking: ‘How can I become faithful, ethical, and learned, a Dhamma speaker, one who frequents assemblies, one who teaches Dhamma to the assembly with assurance, an expert in the training, one who lives in the wilderness, in remote lodgings, one who gets the formless liberations, and one who lives having realized the ending of defilements?’ |
.... là người trì luật, nhưng không phải là người ở rừng, ở các trú xứ xa vắng ... là người ở rừng, ở các trú xứ xa vắng, nhưng đối với các tịch tịnh giải thoát vượt khỏi các sắc, thuộc về vô sắc, vị ấy không cảm giác với thân và an trú, đối với các tịch tịnh giải thoát , vượt khỏi các sắc, thuộc về vô sắc, vị ấy có cảm giác với thân và an trú, nhưng không do đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát; như vậy về chi phần này không viên mãn. Vị ấy cần phải làm cho viên mãn chi phần ấy, nghĩ rằng: "Làm thế nào, ta có lòng tin, có giới, có nghe nhiều, có thuyết pháp, thường tham gia với hội chúng, vô úy thuyết pháp cho hội chúng, trì luật, là người ở rừng, ở các trú xứ xa vắng, đối với các tịch tịnh giải thoát, vượt khỏi các sắc, thuộc về vô sắc, ta có cảm giác với thân và an trú; do đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, ta chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát? " |
When they’re faithful, ethical, and learned, a Dhamma speaker, one who frequents assemblies, one who teaches Dhamma to the assembly with assurance, an expert in the monastic law, one who lives in the wilderness, in remote lodgings, one who gets the formless liberations, and one who lives having realized the ending of defilements, they’re complete in that respect. A mendicant who has these ten qualities is inspiring all around, and is complete in every respect.” |
Và này các Tỷ-kheo, khi nào Tỷ-kheo có lòng tin, có giới, có nghe nhiều, có thuyết pháp thường tham gia với hội chúng, vô úy thuyết pháp cho hội chúng, là vị trì luật, là vị ở rừng, ở các trú xứ xa vắng, đối với các tịch tịnh giải thoát, vượt khỏi các sắc, thuộc về vô sắc, vị ấy có cảm giác với thân và an trú; do đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại tự mình với thắng trí, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát; như vậy về chi phần này, vị ấy được viên mãn. |
^^^ |
Thành tựu mười pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tịnh tín một cách phổ biến, và viên mãn trong mọi phương diện. |
webmasters: Nguyễn Văn Hoà & Minh Hạnh |