The Four Producers or Generators of Material PhenomenaThere are four kinds of producers which produce material phenomena:
Kamma means moral and immoral actions committed in previous existences. |
Bốn Yếu Tố Tạo Ra Sắc PhápCó bốn yếu tố tạo ra các sắc pháp là:
Nghiệp (kamma) có nghĩa là những hành động thiện và bất thiện đã tạo tác trong những quá khứ. |
Citta means mind and mental concomitants existing in the present life. |
Tâm (citta) có nghĩa là tâm và các tâm sở tồn tại trong cuộc sống hiện tại. |
Utu means the two states of Tejo-dhatu, the fire-element, i.e., heat (uṇhatejo) and cold (sītatejo). |
Thời tiết (utu) có nghĩa là hai trạng thái của lửa (Tejo-dhatu, hỏa đại) , tức là nóng (uṇhatejo) và lạnh (sītatejo). |
Ahara means the two kinds of nutritive essence, internal nutriment that obtains from the time of conception and external nutriment that exists in edible food. |
Vật thực (āhāra) có nghĩa là hai loại dưỡng tố (ojā) chủ yếu, chất dinh dưỡng bên trong có được từ thời điểm thụ thai và chất dinh dưỡng bên ngoài trong thực phẩm ăn được. |
Out of the twenty-eight species of material qualities, the nine species, i.e., the six bases, two sexes, and life, are produced only by Kamma. The two media of communications are produced only by Citta. |
Trong số hai mươi tám loại sắc pháp, thì chín loại sắc gồm, sáu sắc vật nương, hai sắc giới và sắc mạng quyền, chỉ được tạo ra bởi Nghiệp. Hai sắc biểu tri do tâm tạo tác (thân và ngữ biểu tri). |
Sound is produced by Citta and Utu. The three plasticities are produced by Citta, Utu, and Ahara. Of the remaining thirteen, excluding Jarata (decay) and Aniccata (impermanence), the eleven--comprising the Four Great Essentials, nutriment, visible form, odour, savour, the element of space, integration, and continuance are produced by the four causes. These eleven always appertain severally to the four classes of phenomena produced by the four causes. There are no phenomena that enter into composition without these. Material phenomena enter into composition with these, forming groups of eight, nine, and so forth, and each group is called Rupa-Kalapa. |
Sắc cảnh thinh được Tâm (Citta) và Thời Tiết (Utu) tạo ra . Ba sắc khinh, nhu và thích nghiệp được tạo ra bởi Tâm (Citta), Thời Tiết (Utu) và Vật Thực (āhāra). Trong số mười ba yếu tố còn lại, ngoại trừ Jarata (suy tàn) và Aniccata (vô thường), mười một yếu tố - bao gồm Tứ Đại , dưỡng chất, sắc, hương, vị, hư không, hợp nhất và tương tục được tạo ra bởi bốn nhân tạo ra . Mười một điều này luôn gắn liền với bốn loại hiện tượng được tạo ra bởi bốn nhân. Không có hiện tượng nào đi vào thành phần mà không có những điều này. Các hiện tượng vật chất hợp thành với những thứ này, tạo thành các nhóm tám, chín, v.v., và mỗi nhóm được gọi là Đoàn Sắc (Kalāparūpa). |
As to the two salient features, decay and impermanence, they exclude themselves from the material qualities born of the four causes as they disorganise what has been produced. |
Đối với hai đặc điểm nổi bật, suy tàn và vô thường, chúng loại trừ khỏi những sắc pháp được sinh ra từ bốn nguyên nhân khi chúng phá hoại những gì đã được tạo ra. |
CAUSES OR ORIGINSOf these eighty-two ultimate things nibbāna inasmuch as it lies outside the scope of birth (Jati), does not not need any originator for its arising; neither does it need any cause for its maintenance since it also does not come within the range of decay and death (Jara-Marana). Hence |
Nhân Sinh RaTrong 82 pháp có thực tính này nibbāna Nibbāna là pháp nằm ngoài sinh (Jati) và diệt, không cần bất kỳ người khởi xướng nào cho sự sinh khởi của nó; nó cũng không cần bất kỳ nguyên nhân nào để duy trì nó vì nó cũng không nằm trong phạm vi của sự già và cái chết ((jarā-maraṇa). Do đó |
Nibbāna is unconditioned and unorganized. But, with the exception of Nibbāna , the eighty-one phenomena, both mental and material, being within the spheres of birth, decay and death, are conditioned and organized things. |
Nibbāna là pháp vô vi và không có tổ chức. Nhưng, ngoại trừ Nibbāna Tám mươi mốt sắc pháp, cả tinh thần và vật chất, nằm trong phạm vi sinh, hoại và tử, là những sự vật có điều kiện và có tổ chức. |
Among the four causes already dealt with in connection with the material qualities, Kamma is merely an originator and Citta (mind) is simply a stimulus. The physical body develops, stands, and is maintained by the power of the warmth element called Utu and by the power of the essence of nutriment. If the forces of the latter two come to an end, the forces of the former two also can no longer operate but cease simultaneously. |
Trong số bốn nguyên nhân đã được đề cập liên quan đến các sắc pháp, Kamma chỉ là tác nhân khởi tạo và Citta (tâm) chỉ là tác nhân kích thích. Cơ thể vật lý phát triển, đứng vững và được duy trì nhờ sức mạnh của yếu tố hơi ấm gọi là Thời tiết (Utu) và nhờ sức mạnh của tinh chất dinh dưỡng. Nếu lực lượng của hai cái sau kết thúc, thì lực lượng của hai cái trước cũng không thể hoạt động nữa mà đồng thời ngừng lại. |
In the case of trees, for example, the seeds are only their origins. They grow, develop, and are maintained by means of the elements of earth and water. If these two principles fail them, the power of the seed also fails along with them. Here the physical body is like the tree; Kamma is like the seed; the warmth-element, or what is called Utu is like the earth; the nutritive essence is like the rain-water, which falls regularly at proper seasons; and mind is like the atmosphere and the heat of the sun, both of which give support from outside. |
Ví dụ, trong trường hợp cây cối, hạt giống chỉ là nguồn gốc của chúng. Chúng lớn lên, phát triển và được duy trì nhờ các yếu tố đất và nước. Nếu hai nguyên tắc này không có, thì sức mạnh của hạt giống cũng thất bại cùng với chúng. Ở đây cơ thể vật lý giống như cái cây; Nghiệp giống như hạt giống; ấm đại, hay cái được gọi là Thời tiết (Utu), giống như trái đất; dưỡng chất như nước mưa, đúng mùa đều đặn rơi xuống; và tâm giống như bầu không khí và sức nóng của mặt trời, cả hai đều hỗ trợ từ bên ngoài. |
With regard to the causes of mind and mental properties, three things are needed for the arising of Resultants; a past kamma, a basis to depend upon, and an object. The first is like the seed of the tree, the basis is like the earth, and the object is like the rain- water. |
Đối với nguyên nhân của tâm và tâm sở, ba điều cần thiết cho sự sinh khởi của các Quả; một nghiệp quá khứ, một cơ sở để nương tựa, và một đối tượng. Thứ nhất giống như hạt cây, nền tảng giống như trái đất, và đối tượng giống như nước mưa. |
Two things are necessary for the arising of each of the mental phenomena of the Morals, the Immorals and the Ineffectives,: a basis to depend upon, and an object. However, to be more detailed, full rational exercise of mind (yoniso manasikāra) is needed for the Morals, and defective irrational exercise of mind (ayoniso-manasikāra) for the Immorals. The Ineffectiveness which have apperceptional functions have the same causes as the Morals. As for the two classes of consciousness called "Turning towards", if they precede the Morals, they have the same causes as the Morals and if they precede the Immorals they have the same causes as the Immorals. Here yoniso-manasikara means proper exercise of reason, and ayoniso-manasikāra means improper exercise of reason. These are the functions of the two classes of consciousness called āvajjana, "Turning towards." On seeing a man, if the manasikāra be rationally utilized, moral consciousness arises; and if the manasikāra be irrationally utilized, immoral consciousness arises. There is no particular object which purely of itself will cause to arise only a moral consciousness, or only an immoral consciousness. The process of the mind may be compared to a boat of which the āvajjana-citta or "Turning-towards-thought" is the helmsman, so also the occurrence of the moral and the immoral consciousness lies entirely in the hands of āvajana. |
Hai điều cần thiết cho sự phát sinh của mỗi hiện tượng tinh thần của nghiệp thiện hay nghiệp bất thiện và pháp vô ký: một cơ sở để phụ thuộc vào, và một đối tượng. Tuy nhiên, để chi tiết hơn, việc vận dụng trí óc theo như lý tác ý (yoniso manasikāra) là cần thiết đối với người Đạo đức, và việc vận dụng trí óc một cách tác ý sai (ayoniso manasikāra) là việc làm của người vô đạo đức. Sự kém hiệu quả có chức năng nhận thức có cùng nguyên nhân như thiện. Còn đối với hai hạng tâm gọi là “Hướng tâm”, nếu chúng có trước thiện thì cùng nhân với thiện và nếu đứng trước bất thiện thì cùng nhân với bất thiện. Ở đây yoniso manasikāra có nghĩa là vận dụng lý trí đúng cách, gọi là như lý tác ý, và ayoniso manasikāra có nghĩa là vận dụng lý trí không đúng cách. Đây là những chức năng của hai loại tâm được gọi là āvajjana (hướng đến) Khi nhìn thấy một người, nếu tác ý (manasikāra). được sử dụng một cách hợp lý, ý thức đạo đức sẽ phát sinh; và nếu tác ý (manasikāra) được sử dụng một bất thiện, ý thức vô đạo đức sẽ phát sinh. Không có đối tượng cụ thể nào mà tự nó sẽ chỉ làm nảy sinh một tâm thiện hay một tâm bất thiện. Tiến trình của tâm có thể được so sánh với một chiếc thuyền mà āvajjana-citta hay “Ý môn hướng tâm" người cầm lái, do đó, sự xuất hiện của tâm thiện và bất thiện cũng hoàn toàn nằm trong tay của āvajjana (hướng đến). |
What the seed is to the tree, that the manasikāra is to the Morals and the Immorals. What the earth is to a tree, that their "Basis" is to the Morals and Immorals. While what the rain-water is to a tree, that their "object" is to the Morals and Immorals. |
Hạt giống là gì đối với cây Tác Ý manasikāra là gì đối với Thiện và Bất Thiện. Trái đất là gì đối với một cái cây, thì "Cơ sở" của chúng là Thiện và Bất Thiện. Trong khi nước mưa là gì đối với cây, thì "đối tượng" của chúng là Thiện và Bất Thiện. |
We will now set forth the causes in another way. |
Bây giờ chúng ta sẽ trình bày các nguyên nhân theo một cách khác. |
Each of the six classes of consciousness has four causes. For the arising of the consciousness of sight there is needed Cakkhu-vatthu, rūpārammaṇa, āloka and manasikāra. Of these, manasikāra is the name of the pañcadvārāvajjana-citta which turns the process of mind in the direction of the object of sight. Aloka means light. Unless there is light, the function of seeing will not take place, nor the process of cognition. Cakkhu-vatthu means eye-basis; and rūpārammaṇa means object of sight, literally, form-object. |
Mỗi một trong sáu loại tâm đều có bốn nhân. Đối với sự khởi sinh của nhãn thức, cần phải có Nhãn vật (Cakkhu-vatthu) còn gọi là thần kinh nhãn, cần có cảnh sắc (rūpārammaṇa), cần có ánh sáng (āloka) và tác ý muốn nhìn (manasikāra).Trong số này, tác ý muốn nhìn (manasikāra) là tâm Hướng ngũ môn (pañcadvārāvajjana citta) xoay tiến trình của tâm theo hướng của đối tượng thấy. āloka có nghĩa là ánh sáng. nếu không có ánh sáng, chức năng nhìn sẽ không diễn ra, cũng như quá trình nhận thức. Cakkhu-vatthu nghĩa là nhãn căn; và rūpārammaṇa có nghĩa là cảnh sắc, nghĩa đen là đối tượng sắc tướng. |
For the arising of the consciousness of Sound, there is needed Sota-vatthu (ear-basis) Sadda-rammana (object of sound), Akasa and Manasikara. Here Akasa means the space through which sound is communicated to the ear. The function of hearing can take place only when it is present; the process of ear-door cognitions also occurs only when hearing takes place. |
Đối với sự khởi sinh của thức Âm thanh, cần có Nhĩ căn hay thần kinh nhĩ (Sota-vatthu), cần có cảnh thinh (saddārammaṇa), cần có khoảng không (ākāsa) và cần có tác ý (manasikāra). Ở đây (ākāsa có nghĩa là không gian mà qua đó âm thanh được truyền đến tai. Chức năng nghe chỉ có thể diễn ra khi nó có mặt; tiến trình của nhĩ môn cũng chỉ xảy ra khi nghe diễn ra. |
For the arising of the consciousness of smell, there is needed (ghānavatthu (nose basis), gandhārammaṇa (object of smell), vāta and manasikāra. Here vāta means the air in the nose or the inhaled air. If this is not present, odours cannot come into contact with the nose-basis, and consequently the function of smelling and the nose-door cognitions cannot take place. |
Đối với sự phát sinh của thức về mùi, cần có tỷ vật (ghānavatthu), cần có cảnh mùi (gandhārammaṇa), cần có gió (vāta) và tác ý (manasikāra). Ở đây vāta có nghĩa là không khí trong mũi hoặc không khí hít vào. Nếu không có điều này, các mùi không thể tiếp xúc với căn mũi, và do đó, chức năng ngửi và nhận thức của căn mũi không thể diễn ra. |
For the arising of the consciousness of taste, there is needed jīvhāvatthu (tongue-basis), rasārammaṇa (object of taste), Apa and manasikāra. Here Apa means wetness of the tongue. If the tongue is dry, the savour or sapidity cannot come into contact with the tongue-basis, and consequently the function of tasting and the tongue-door cognitions cannot take place. |
Đối với sự khởi sinh của thiệt thức về vị, cần có thiệt vật (jīvhāvatthu) hay thần kinh thiệt, cần có cảnh vị (rasārammaṇa), cần có chất nước (āpo) và tác ý (manasikāra). Ở đây (āpo) có nghĩa là lưỡi ướt. Nếu lưỡi bị khô, vị ngọt hay vị mặn không thể tiếp xúc với thiệt thân, và do đó, chức năng nếm và nhận thức của căn lưỡi không thể diễn ra. |
For the arising of the consciousness of touch, there is needed Kaya-vatthu (body basis), phoṭṭhabbārammaṇa (object of touch), Thaddha and manasikāra. Here Thaddha means the quality of the object of touch, i.e., the degree of coarseness of it. Only a some- what coarse touch can make an impression upon the body-basis. If the object of touch is too subtle, it cannot impinge upon the body-basis. And unless there is impingement, neither consciousness of touch nor the body-door, cognitions can arise. |
Đối với thân thức khởi sinh, cần phải có thân vật (kāyavatthu), cần có cảnh xúc (phoṭṭhabbārammaṇa), cần có chất thô (thaddha) và tác ý (manasikāra). Ở đây Thaddha có nghĩa là chất lượng của đối tượng xúc giác, tức là mức độ thô của nó. Chỉ một sự đụng chạm hơi thô thiển mới có thể gây ấn tượng trên cơ thể. Nếu đối tượng xúc chạm quá vi tế, nó không thể tác động lên thần kinh thân. Và nếu không có sự tiếp xúc, không có xúc chạm hay thân vật, thì các nhận thức không phát sinh. |
For the arising of the consciousness of mind, there is neededhadayavatthu(heart-basis), Dhammārammṇa (object of thought) Manodvara (mind-door), and Manasikāra. Of these, Dhammārammṇa means all objects comprising all material qualities other than the five-fold objects, all mental qualities, all ideas, and Nibbana. As a matter of fact, the five-fold objects (form, sound, smell, taste and touch) are also the objects of consciousness of mind, but in order to set forth what is not related to the five doors, or five senses, only thought-objects are mentioned here. Manodvāra or mind-door means the continuum of sub-consciousness. Though the heart- basis is the place where consciousness of mind arises, since it does not possess the appropriate kind of sensuous organs, the impressions of objects cannot appear in it, hence they have to appear in the mind-door only. |
Đối với sự sinh khởi của ý thức, cần có sắc ý vật (hadayavatthu), cần có cảnh pháp (dhammārammṇa), cần có ý môn (manodvāra), và tác ý (manasikāra).. Trong số này, Cảnh pháp Dhammarammana có nghĩa là tất cả các đối tượng bao gồm tất cả các phẩm chất vật chất khác với các đối tượng năm phần, tất cả tâm và tâm sở và Niết bàn. Thật ra, năm đối tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) cũng là đối tượng của ý thức, nhưng để trình bày những gì không liên quan đến năm căn, hay năm giác quan, thì ở đây chỉ đề cập đến đối tượng của tư duy. Manodvāra hay ý môn nghĩa là sự tương tục của tiềm thức. Mặc dù ý căn là nơi mà ý thức phát sinh, nhưng vì nó không có các loại căn thích hợp nên những cảm nhận về đối tượng không thể xuất hiện trong đó, do đó chúng chỉ có thể xuất hiện ở ý môn. |
The Two Abhiññā or THE TWO SUPER-KNOWLEDGESAbhiññā means super-knowledge, or the faculty of knowing pre-eminently beyond that of ordinary mankind. It is of two kinds, |
Hai Abhiññā hay Thắng trí.Abhiññā có nghĩa là Thắng Trí, là kiến thức siêu phàm, hay khả năng hiểu biết vượt trội so với người bình thường. Thắng Trí có hai loại, |
Samatha abhiññā and Dhamma abhiññā . Samatha-abhiññā means super-knowledge acquired through the carrying out of the exercises in Calm (Samatha). It is of five different kinds: |
Samatha abhiññā là Định Thắng Trí và Dhamma abhiññā là Pháp Thắng Trí . Samatha-abhiññā là Định Thắng Trí là Thắng Trí có được nhờ thực hành Thiền Tĩnh lặng (Samatha). Có năm loại khác nhau: |
The first is the supernormal powers of passing through the air, sinking into the earth, by oneself creating wonderful things, transforming oneself into different personalities. |
Thắng trí thứ nhất Iddhividha-abhiññā - Thần thông trí là năng lực xuyên qua không trung, xuyên qua đất, tự mình tạo ra những điều kỳ diệu, biến đổi bản thân thành những nhân cách khác nhau. |
The second is extreme sensitiveness of hearing such as is possessed by Celestial beings. |
Thắng trí thứ hai Dibbasota-abhiññā - Thiên nhĩ trí là năng lực nghe cực kỳ nhạy bén của các Chư Thiên . |
The third is the supernormal knowledge of others' thought. |
Thắng Trí thứ ba Cetopariya-abhiññā - Tha tâm trí, là năng lực biết được tư tường của người khác. |
The fourth is the supernormal knowledge of previous existences. |
Thắng Trí thứ tư Pubbenivāsa-abhiññā - Túc mạng trí là năng lực biết được những kiếp trong quá khứ. |
The fifth is the supernormal knowledge of living beings and of the kammas in accordance with which they are thrown down into the various spheres of existence; it resembles such supernormal vision as is possessed by Celestial beings. |
Thắng Trí thứ năm Yathākammupaga-abhiññā - Sinh tử trí là năng lực nhìn thấy chúng sinh và về các nghiệp mà theo đó tái sinh vào các cõi hiện hữu khác nhau; giống như tầm nhìn siêu phàm mà các Chư Thiên có được. |
Dhamma abhiññā means the insight by which are discerned all the things of ultimate truth mentioned in the section on the Truths, together with their respective characteristics beyond the range of conventional truth. It is divided into three kinds: |
Dhamma abhiññā Pháp Thắng Trí có nghĩa là tuệ giác nhận thức phân biệt tất cả những sự vật của chân lý tối hậu được đề cập trong phần về Chân đế, cùng với những đặc tính tương ứng của chúng vượt ra ngoài phạm vi của tục đế. Dhamma abhiññā Pháp Thắng Trí được chia thành ba loại: |
|
|
|
|
|
|
The last of the three is again subdivided into two: |
Cái thứ 3 bhāvanāmaya ñāṇa - Trí Tu đượ chia làm 2 |
Of these last two, the former is the triple insight into Impermanence, Infelicity, and No-soul, or it is the insight into things with all their characteristics as they truly are. The latter is the transcendental knowledge of the Four Paths. By this knowledge, which can dispel the darkness of the defilements (kilesa) such as error, perplexity, and so forth, those who have attained the Paths are brought into the light. |
Hai trí cuối cùng này, trí thứ nhất là tuệ giác về tam tướng; Vô thường, Khổ và Vô Ngã, hay là tuệ giác nhìn vào mọi sự vật với đặc tính như chúng thật sự là. Trí thứ hai là trí tuệ siêu việt của Bốn Đạo. Nhờ sự hiểu biết này, mà có thể xua tan bóng tối của những ô nhiễm (kilesa) như tà kiến, phóng dật, v.v., những người đã đạt được các Đạo thì thoát ra khỏi Vô Minh. |
The Three PariññāPariññā means profound knowledge. It is of three kinds, viz:
|
Ba Tuệ Tri PariññāPariññā là Tuệ Tri nghĩa là kiến thức uyên thâm. Tuệ Tri (Pariññā) có 3 là
|
ñāta pariññā means a profound and accurate discernment of mental and material phenomena with all their proximate causes, and also of Nibbana, as shown in the previous sections on the Truths and the Causes. It discerns things deeply by means of Dhamma abhiññā (philosophical knowledge) in their ultimate aspects, dispelling all merely pictorial ideas or representations (santhānapaññāti) such as hair, hair of the body, and so forth. Even if all of these are not discerned, if only the Four Great Essentials out of twenty-eight material phenomena are discerned accurately in the aforesaid manner, it may be said that the function of Nata-parinna as regards Rupa (form), is accomplished. As regards Nama, the mental side, if only four of the mental things, i.e., mind, feeling, perception, and volition, are thoroughly discerned in the aforesaid manner, it may also be said that the function of Nataparinna as regards Nama is fulfilled. If Nibbana can also be discerned as shown above the function of ñāta pariññā would be fully realized. |
ñāta pariññā là hiểu biết trọn vẹn về trí đã đạt (thắng tri) , có nghĩa là sự phân biệt sâu sắc và chính xác về danh pháp và sắc pháp với tất cả các nguyên nhân gần của chúng, và cả về Niết-bàn, như đã trình bày trong các phần trước về Sự thật và Nguyên nhân. Nó phân biệt sự vật một cách sâu sắc bằng phương pháp Dhamma abhiññā là Pháp Thắng Trí (kiến thức triết học) ở những khía cạnh tối hậu của chúng, xua tan mọi ý tưởng hoặc biểu tượng đơn thuần bằng diễn đạt bằng ngôn từ, hình ảnh hay ví dụ để mô tả (santhānapaññāti) chẳng hạn như tóc, lông trên cơ thể, (32 thể trược v.v. Ngay cả khi tất cả những điều này không được phân biệt, nếu chỉ có Bốn Yếu Tố Trọng Yếu (đất, nước, gió, lửa) trong số 28 hiện tượng vật chất được phân biệt chính xác theo cách đã nói ở trên, thì có thể nói rằng chức năng của ñāta pariññā đối với Sắc Pháp (Rupa) đã được hoàn thành. Về phần danh pháp, nếu chỉ có bốn danh pháp là tâm, thọ, tưởng, hành, được phân biệt thấu đáo theo cách đã nói ở trên, thì cũng có thể nói rằng chức năng của ñāta pariññā đối với danh pháp đã hoàn thành. Nếu Nibbana cũng có thể được quan sát rõ ràng như đã trình bày ở trên thì chức năng của ñāta pariññā sẽ được thực hiện đầy đủ. |
tīraṇa pariññā means a profound and accurate discernment of momentary phenomena (both mental and material) with insight into waxing and waning, by skilfully dissecting the continuity of mentals and materials (Nama and Rupa) into momentary ultimates. It is of three kinds: |
tīraṇa pariññā Hiểu biết trọn vẹn về thẩm sát , tuệ tri có nghĩa là sự phân biệt sâu sắc và chính xác về các hiện tượng nhất thời (cả danh pháp và sắc pháp) với cái nhìn sâu sắc về sự tăng trưởng và sự giảm dần, bằng cách phân tích một cách khéo léo tính tương tục của danh và sắc theo nghĩa chúng chỉ là các pháp hữu vi mà thôi. Nó có ba loại: |
Of these three, Anicca-parinna means either a perfect or a qualified knowledge of the law of death (marana). Here by death is meant the two kinds of the same, conventional death (sammutimarana) and the ultimate death (paramatthamarana). Of these two terms, by conventional death we mean that kind of death concerning which we are accustomed to say, according to the conventional truth, that "to die some time is unavoidable for every living person or every living creature". By ultimate death we mean the momentary death of mental and material phenomena which occurs innumerable times even in one day. The former neither possesses the real salient feature of Impermanence, nor does it lie properly within the domain of anicca-parinna, but only of the recollection of death (marananussati). In fact, it is only the latter, ultimate death, which exhibits the salient feature of Impermanence, and lies within the domain of Anicca-parinna. |
Trong ba điều này, Anicca pariññā là Vô thường tuệ tri, có nghĩa là một sự hiểu biết hoàn hảo hoặc đủ điều kiện về định luật của cái chết (marana). Cái chết ở đây có hai loại, cái chết theo thông thường (sammutimarana) và cái chết theo chân đế (paramatthamarana). Trong hai thuật ngữ này, khi nói đến cái chết thông thường, chúng ta muốn nói đến loại cái chết liên quan đến cái mà chúng ta quen nói, theo chân lý thông thường, rằng "chết một lúc nào đó là điều không thể tránh khỏi đối với tất cả chúng sinh". Khi nói đến cái chết theo chân đế, chúng ta muốn nói đến sự sanh diệt trong sát na của các hiện tượng danh và sắc xảy ra vô số lần ngay cả trong một ngày. Cái chết theo thông thường không sở hữu đặc điểm nổi bật thực sự của Vô thường, nó cũng không nằm trong phạm vi của Vô Thường Tuệ Tri (Anicca pariññā) , mà chỉ có niệm về cái chết (tùy niệm sự chết maraṇānussati). Trên thực tế, chỉ có cái chết chân đế, mới thể hiện đặc điểm nổi bật của Vô Thường, và nằm trong lãnh vực của Vô Thường Tuệ Tri (Anicca pariññā) . |
Dukkha-parinna means either a perfect or a qualified knowledge of the intrinsic characteristic Ill or infelicity. Here Ill is of two kinds: |
Dukkha pariññā là Khổ tuệ tri có nghĩa là một sự hiểu biết hoàn hảo hoặc đủ điều kiện về đặc tính khổ là khổ vi bệnh tật hoặc khổ vi bất hạnh. Khổ ở đây có hai loại: |
|
|
Of these two, by Vedayita-dukkha, bodily and mental pains are meant; and by bodily pain is meant the unbearable, umpleasant pain that comes to the various parts of the body; while mental pain means such pains as Soka (sorrow), Parideva (lamentation), Domanassa (grief), Upayasa (despair), which are experienced by mind. Bhayattha-dukkhas are those pains which fall within the sphere of Bhaya-nana (knowledge of things as fearful), and of the Adinavanana (knowledge of things as dangerous): jātidukkha (ill of birth), jarādukkha (ill of decay), Marana-dukkha (ill of death). saṅkhāradukkha (ill of conditionality), and Viparinama-dukkha (ill of changeability), which will be explained afterwards. |
Trong hai điều này, Cảm thọ khổ (Vedayita-dukkha) có nghĩa là khổ về thể xác và tâm; có nghĩa là cái khổ không thể chịu nổi, khó chịu đến với các bộ phận khác nhau của cơ thể; trong khi nỗi khổ tinh thần có nghĩa là những nỗi đau như buồn rầu (soka), than thở (Parideva), đau buồn (Domanassa), Upayasa (tuyệt vọng), do tâm trải nghiệm. Kinh sợ khổ (Bhayattha-dukkhas) là những nỗi đau rơi vào phạm vi của tuệ sợ bhaya ñāṇa (biết những điều đáng sợ), và của tuệ thấy sự nguy hại ādīnava ñāṇa (biết những điều nguy hiểm): sợ khổ sinh jātidukkha, sợ khổ già (jarādukkha), sợ khổ chết (Marana-dukkha). sợ hành khổ (saṅkhāradukkha) và sợ khổ do thay đổi (vipariṇāma dukkha), sẽ được giải thích sau. |
Here is an illustration to show the difference between the vedayita-dukkha and bhayattha-dukkha. A man has a dangerous disease. He has to live on a simple diet, such as vegetables and fruit, so as to keep himself healthy and the disease in a subdued condition. If he takes rich diet, such as poultry, fish, meat, and confectionery, even though a sense of comfort and enjoyment may accompany such a dainty meal, after partaking of it he will suffer almost deadly pain for the whole of that day or maybe for many days from indigestion, which will cause to arise again in full force the disease that was subsiding. The more dainty the meal was, the longer will he suffer. Now suppose that a friend of his, with a view to acquiring merit, brings him some nicely cooked, buttered rice, fowl, fish, and meat. The man, fearing the agony of pain which he will undergo if he should eat of the meal so well prepared , though only for a few moments, has to thank his friend but decline it, telling him that the meal is too rich for him, and that should he partake of it he would be sure to suffer. In this instance, the richly prepared food is, of course, the pleasurable object (vedayitasukha-vatthu), for it will probably furnish a nice savour to the palate while it is being eaten, which feeling of pleasure is called Vedayitasukha. But to him who foresees that it will cause him such pain as may break down his health, this same food is really an unpleasurable object. He shrinks from and fears it, for he knows that the better the savour the longer he must sufffer; hence the pleasure his palate will derive from the food is to him a real fear-producing ill. |
Đây là một minh họa cho thấy sự khác biệt giữa vedayita-dukkha và bhayattha-dukkha. Một người bị một căn bệnh nguy hiểm. Anh ta phải sống bằng một chế độ ăn uống đơn giản, chẳng hạn như rau và trái cây, để giữ cho mình khỏe mạnh và bệnh tật trong tình trạng giảm xuống. Nếu anh ta ăn nhiều chất bổ dưỡng, chẳng hạn như thịt gia cầm, cá, và bánh kẹo, mặc dù cảm giác thoải mái và thích thú có thể đi kèm với một bữa ăn ngon như vậy, nhưng sau khi ăn xong, anh ta sẽ phải chịu đau đớn nhiều hơn trong suốt ngày hôm đó hoặc có thể. trong nhiều ngày từ chứng khó tiêu, điều này sẽ khiến căn bệnh đang thuyên giảm bùng phát trở lại. Bữa ăn càng ngon, anh ta càng đau khổ lâu hơn. Bây giờ, giả sử rằng một người bạn của anh ta, với mục đích tích lũy công đức, mang đến cho anh ta một ít cơm, gia cầm, cá và thịt được nấu chín kỹ. Người đàn ông lo sợ sẽ bị đau đớn nếu ăn bữa ăn được chuẩn bị kỹ lưỡng như vậy, dù chỉ trong chốc lát, nên cảm ơn bạn mình nhưng từ chối, nói với anh ta rằng bữa ăn quá thịnh soạn đối với anh ta. và nếu anh ta dự phần vào nó, anh ta chắc chắn sẽ đau khổ. Trong trường hợp này, thức ăn được chế biến phong phú tất nhiên là đối tượng thích thú (vedayitasukha-vatthu là cảm giác lạc thọ), vì nó có thể sẽ mang lại hương vị thơm ngon cho khoái khẩu khi đang ăn, cảm giác thích thú đó được gọi là lạc thọ (Vedayitasukha). Nhưng đối với người biết trước rằng nó sẽ gây cho mình đau đớn đến mức có thể làm suy yếu sức khỏe của mình, thì chính thức ăn này thực sự là một đối tượng nguy hại. Anh ta thu mình lại và sợ nó, vì anh ta biết rằng hương vị càng ngon thì anh ta càng phải chịu đựng lâu hơn; do đó, niềm vui mà khẩu vị của anh ta có được từ thức ăn đối với anh ta là một nỗi "kinh sợ khổ". |
ln the world, he who has not got rid of the error of Ego and become safe against the danger of the dispersion of life (vinipatanabhaya), and its passage to realms of misery, is like the aforesaid man who has the dangerous disease. The existences of men, Devas and Brahmas, and the pleasures experienced therein, are like the richly prepared food and the feeling of pleasure derived from it. The state of being reborn in different existences after death is like the agony which the man has to suffer after the enjoyment of the food. |
Trong cõi Dục Giới, kẻ nào chưa thoát khỏi kiến chấp về Bản ngã và có cơ nguy bị tái sinh đọa trong các kiếp sống khác nhau (vinipatanabhaya), và bị đọa vào các cõi đau khổ, giống như người bị bệnh hiểm nghèo đã nói ở trên. Sự hiện hữu của loài người, chư Thiên và Phạm thiên, và những lạc thú trải nghiệm trong đó, giống như thức ăn được chế biến phong phú và cảm giác thích thú bắt nguồn từ đó. Trạng thái tái sinh trong những kiếp sống khác nhau sau khi chết giống như nỗi thống khổ mà một người phải chịu đựng sau khi thưởng thức đồ ăn. |
Here Vedayita-dukkha is synonymous with Dukkha-vedana which is present in the Vedana Triad of Sukhaya-vedanaya-sampayutta- dhamma, Dukkhaya - vedanaya-sampayutta-dhamma, and Adukkhamasukhaya-vedanaya-sampayutta-dhamma. Bhayattha-dukkha is synonymous with Dukkha-saccam and with lakkhaṇa dukkhaṃ, which is present in the three salient features, Anicca, Dukkha, and Anatta. |
Ở đây Cảm thọ khổ (Vedayita-dukkha) đồng nghĩa với Thọ Khổ (Dukkha-vedana) hiện diện trong Tam Đề Thọ (vedanātīkā) của: Sukhāya vedanāya sampayuttā dhammā: Tất cả Pháp Tương Ưng lạc Thọ, Dukkhāya vedanāya sampayuttā dhammā: Tất cả Pháp Tương Ưng thọ khổ, và Adukkhamasukhāya vedanāya sampayuttā dhammā: Tất cả Pháp Tương Ưng Phi khổ phi lạc thọ. Kinh sợ khổ (Bhayattha-dukkha) đồng nghĩa với sự thật về cái khổ (Dukkha-saccaṃ) và với tướng khổ (lakkhaṇa dukkhaṃ), Sự có mặt nổi bậc trong tất cả các pháp hữu vi là tam tướng : Vô Thường (Anicca), Khổ (Dukkha) và Vô Ngã (Anatta). |
Hence, the perfect as well as the qualified knowledge of the intrinsic nature of the ill of the existences of men, Devas and Brahmas, as of the pleasures experienced therein, is called the Khổ tuệ tri . |
Do đó, sự hiểu biết đúng đắn cũng như sự nhận thức về thực chất tự nhiên của những điều bất hạnh trong cuộc sống của con người, chư Thiên và Phạm thiên, cũng như những thú vui được trải nghiệm trong đó, được gọi là Khổ tuệ tri (Dukkha pariññā ). |
Anatta-parinna means the perfect or the qualified knowledge of things mental and material as possessing the characteristic of No-soul." By this knowledge of things as no-soul, the Anatta-nanna, all the mental and material phenomena that belong to the ultimate truths are discerned as having no-soul. By it also is discerned the non-personality of the "person" of conventional truth. Neither are persons and creatures discerned as the soul or personality of mental and material phenomena; nor is it discerned that there exists, apart from these, a soul or personality which never dies but transmigrates from one existence to another. If this knowledge attains to its highest degree, it is called Anatta-pariññā. The triple pariññā (of' Anicca, Dukkha, and Anatta), is called Tirana-pariññā. |
Anatta pariññā là vô ngã tuệ tri, có nghĩa là sự hiểu biết hoàn hảo hay đầy đủ về các sự vật tinh thần và vật chất như là khả năng nhận định các pháp theo đặc tính của vô ngã.” Bằng sự hiểu biết này về các pháp là vô ngã, Anatta-nanna, tất cả các hiện tượng danh và sắc thuộc về vô ngã, chân lý tối hậu được phân biệt là không có ngã. Bởi nó cũng được nhận thức rõ ràng về tính cách vô ngã của “con người” theo tục đế. Cả con người và sinh vật đều không được phân biệt là linh hồn hay cá tính của các hiện tượng tinh thần và vật chất; người ta cũng không nhận thấy rằng có tồn tại, ngoài những thứ này, một linh hồn hay nhân cách không bao giờ chết mà luân hồi từ kiếp này sang kiếp khác. Nếu cái biết này đạt đến mức độ cao nhất, nó được gọi là vô ngã tuệ tri Anatta pariññā . Ba Tuệ Tri (pariññā) về:: Vô Thường (Anicca), Khổ (Dukkha), và Vô Ngã (Anatta), được gọi là Liễu tri trong sự quan sát (tirana-pariññā) tuệ quán 3 tính chất vô thường, khổ, vô ngã. |
Pahāna-pariññā means the perfect or the qualified knowledge which dispels hallucinations. It dispels the three Nicca-vipallāsa by means of the insight acquired through the contemplation of Impermanence, the three Sukha-vipallasas and the three Subha-vippallasas, by means of the insight acquired through the contemplation of Ill, and the three Atta-vippallasas by means of the insight acquired through the contemplation of No-soul. |
Pahāna-pariññā, hiểu biết trọn vẹn về đoạn trừ , có nghĩa là sự hiểu biết hoàn hảo hoặc có khả năng xua tan ảo giác. Nó xua tan ba pháp thường hằng điên đảo(nicca vipallāsa) bằng tuệ giác có được nhờ quán chiếu về Vô thường, nó xua tan ba pháp lạc điên đảo (sukha vipallāsa) và xua tan ba pháp tịnh điên đảo (subha vipallāsa), bằng tuệ giác có được nhờ quán chiếu về bất tịnh (bệnh hoạn khổ đau), và xua tan ba pháp ngã điên đảo (Atta-vipallasas) bằng cái nhìn sâu sắc có được thông qua sự quán chiều về Vô ngã. . |
(Note by Translator.---Here the three Nicca-vippallasas are:
That is to say: Impermanence is erroneously perceived, thought and viewed as permanence. The three Sukha-vippallasas are:
That is to say: Ill is erroneously perceived, thought, and viewed as pleasure. The three Subha-vippallasas are:
That is to say: Impurity is erroneously perceived, thought, and viewed as purity. The three Atta-vippallasas are:
That is to say: No-soul is erroneously perceived, thought, and viewed as soul.-End of Note By Translator.) |
(Ghi chú của người dịch.---Ở đây 3 Thường hằng điên đảo là:
Điều đó có nghĩa là: Vô thường là do nhận thức, suy nghĩ và nhận xét một cách sai lầm là thường hằng. Ba Lạc điên đảo là:
Điều đó có nghĩa là: Đau khổ được nhận thức, suy nghĩ và nhận xét là lạc thú một cách sai lầm. Ba tịnh điên đảo là:
Điều đó có nghĩa là: Bất tịnh là do nhận thức, suy nghĩ và nhận xét cách sai lầm là thanh tịnh. Ba ngã điên đảo là:
Điều đó có nghĩa là: Vô ngã bị nhận thức, suy nghĩ và nhận xét một cách sai lầm là có ngã.- Hết phần chú thích của người dịch.) |
Here Atta or- soul is the supposed underlying essence of a pictorial idea (santhana-pannatti), and Jiva or life is the supposed underlying essence of an aggregate-idea (santati-pannatti). |
Ở đây, Ngã hay linh hồn được giả định là bản chất cơ bản của một quan niệm hình thể (santhana-paññatti), và Jiva (sự sống) hay là sự sống bản chất cơ bản được chỉ là của một ý tưởng tổng hợp liên tục chế định (santati-paññatti). |
Of these two delusions, the former may be got rid of by a knowledge of the two kinds of truth, the ultimate and the conventional; but the latter can be got rid of only when the Anicca-parinna reaches its summit. |
Trong hai ảo tưởng này, ảo tưởng thứ nhất quan niệm hình thể (santhana-paññatti) có thể bị loại bỏ nhờ hiểu biết về hai loại chân lý, chân đế và tục đế; nhưng cái sau, tổng hợp liên tục chế định (santati-paññatti). chỉ có thể bị loại bỏ khi Anicca pariññā là Vô thường tuệ tri lên đến đỉnh điểm. |
Here, by Santati is meant the continuum of aggregates of the same kind, and by Nana-santati is meant the continua of aggregates of different kinds. |
Ở đây, Santati có nghĩa là sự liên tục của một pháp hay nhiều pháp, một uẩn hay nhiều uẩn cùng tiếp diễn, và bởi nana-santati có nghĩa là sự tiếp tục tiếp diễn của các uẩn thuộc các loại khác nhau. |
This santati is of two kinds mental and material. And the continuum of the material variety of aggregate is again sub-divided into four classes, namely, into those produced by Kamma, by mind, by temperature, by food. |
Santati này có hai sự tiếp diễn: Sự tiếp diễn của Danh Pháp và sự tiếp diễn của Sắc Pháp. Và dòng tương tục của sắc uẩn đa dạng lại được chia nhỏ thành bốn loại, như là, những loại do Nghiệp, do tâm, do thời tiết, do thực phẩm tạo ra. |
With regard to matter produced by temperature, aggregates arise and cease at every stroke of our fan when, in hot weather, we fan ourselves. |
Đối với vật chất được tạo ra bởi thời tiết, các uẩn sinh và diệt theo mỗi nhịp quạt của chúng ta khi chúng ta quạt cho mình trong thời tiết nóng bức. |
What has been shown is the growth-and-decay and the death of the continua of material aggregates. |
Những gì đã được nói lên là sự tăng trưởng và hoại diệt và cái chết của dòng tương tục của các sắc pháp. |
Now come the continua of mental phenomena. They are also very numerous. Every one knows his own mind. There are continua of various kinds of greed, of various kinds of hate, of various kinds of dullness, of various kinds of faith, of various kinds of love. In the single act of sitting only, the arising of various kinds of countless thoughts is recognised by everyone. Each process of thought has its birth, decay, and death. Everyone knows oneself thus: "Greed is rising in me now," or "Hate is rising in me now',; or "Greed has ceased in me"; or "Hate has ceased in me." But it cannot be said that it has ceased forever or that it has come to its final end, for this is only the temporary cessation or death of the process or continuum of thoughts. If circumstances are favourable, they will rise again instantly. What has just been said is in exposition of the decay and death of the mental continuum. |
Bây giờ nói đến phần tương tục của các Danh Pháp. Chúng cũng rất nhiều. Mỗi người tự biết tâm của mình. Có nhiều loại tham, sân, si, tín, vô tham, vô sân khác nhau. Chỉ trong một động tác ngồi thôi, nhiều sự khởi lên của vô số loại tư tưởng được mình nhận biết. Mỗi tiến trình của tư tưởng đều có sự sinh ra, dừng lại và biến mất của nó. Mọi người tự biết như vậy: "Tham đang trỗi dậy trong tôi," hay "Sân hận đang trỗi dậy trong tôi", hay "Tham đã diệt trong tôi"; hay "Sân hận đã diệt trong tôi." Nhưng không thể nói rằng nó đã chấm dứt vĩnh viễn hoặc nó đã đi đến hồi kết cuối cùng, vì đây chỉ là sự dừng lại tạm thời hay cái chết của tiến trình hay dòng liên tục của các ý nghĩ. Nếu hoàn cảnh thuận lợi, chúng sẽ khởi động trở lại ngay lập tức, và lại sự suy tàn và biến mất của một dòng tâm thức. |
Nata-parianna is relevant to Tirana-parinna, which in turn is relevant to Pahana-irapanna the one sole necessary thing. |
ñāta pariññā,hiểu biết trọn vẹn về trí đã đạt (trí đạt toàn tri, hay thắng tri), có liên quan đến tīraṇa pariññā, hiểu biết trọn vẹn về thẩm sát (toàn tri về thẩm sát, hay tuệ tri), do đó có liên quan đến Pahāna-pariññā, hiểu biết trọn vẹn về đoạn trừ (toàn tri về đoạn trừ, hay liễu tri) là điều cần thiết duy nhất. |
Exposition of Tīraṇa pariññā.The three salient marks or features are:
Anicca-lakkhaṇa or the Mark of Impermanence, is the characteristic of the sphere of Vipariṇāma and of Aññathābhāva. |
Diễn giải rộng về Tīraṇa pariññā, sự hiểu biết trọn vẹn về thẩm sát (toàn tri về thẩm sát, hay tuệ tri).Ba ấn tướng hoặc tính năng nổi bật là:
Anicca-lakkhaṇa tướng của Vô Thường, là thay đổi, sự thay đổi này có hai là: hoại dịch, chuyển hóa Vipariṇāma và biến đổi Aññathābhāva. |
Vipariṇāma means metastasis, that is, a radical change in nature; a change from the present state into that which is not the present state. Aññathābhāva means subsequent change of mode. If the spheres of Vipariṇāma and Aññathābhāva are exposed to the view of the mind's eye, it will be distinctly discerned that the mental and material phenomena which are within the spheres of these two, Vipariṇāma and Aññathābhāva, are really impermanent things. Therefore we have said: "The anicca-lakkhana or the mark of impermanence, is the characteristic of the sphere of Vipariṇāma and of Aññathābhāva. When we closely observe and analyze in mind the flame of a lamp burning at night, we take note of the flame together with its five salient features, i.e. birth, growth, continuance, decay, and death. We note that the fire is momentarily arising. This is the birth of a material phenomenon; but it is not fire. We observe that the flame after arising, is constantly developing. This is the growth of the material phenomenon; but it is not fire. We observe that the flame is uninterruptedly continuing in its normal state. This is the continuance of the material phenomenon, but it is not fire. We observe that the flame is dying down. This is the decay of the material phenomenon; but it is'not fire. We observe that the flame is dying away. This is the death of the material phenomenon, but it is not fire. The property of hotness is, of course, fire. The flame quivers merely on account of the presence of these five salient features. Sometimes it may quiver when the lamp is removed, and in that case it may be said that the quivering is due to wind. These five salient features are therefore the subsequent changes (annathabhava) of the flame, called the Marks of Impermanence. By observing and taking note of these five salient features, it can be understood that the flame is an impermanent thing. Similarly it should be understood that all moving things are impermanent things. |
Vipariṇāma có nghĩa là sự chuyển hóa, đó là, sự thay đổi căn bản của tạo hóa; một sự thay đổi từ trạng thái hiện tại sang trạng thái không phải là hiện tại. Aññathābhāva có nghĩa là biến đổi xảy ra sau. Nếu các phạm vi của Vipariṇāma sự chuyển hóa và Aññathābhāva được phơi bày trước quan điểm của nhãn thức, nó sẽ được phân biệt rõ ràng rằng các hiện tượng danh và sắc nằm trong các phạm vi của hai phạm vi này, thì Vipariṇāma và Aññathābhāva, là thực sự vô thường. Do đó chúng ta công nhận rằng: “Vô thường hay dấu hiệu của vô thường, là đặc tính của lĩnh vực thay đổi (vipariṇāma) và biến đổi (aññathābhāva). Khi chúng ta quan sát kỹ lưỡng và phân tích tim ngọn lửa của ngọn đèn đang cháy vào ban đêm, chúng ta ghi nhận ngọn lửa cùng với năm đặc điểm nổi bật của nó, tức là sinh lên, rực sáng (trưởng), tiếp diễn trụ, nhỏ dần hoại và tắt mất diệt. Chúng ta lưu ý rằng ngọn lửa đang phát sinh trong giây lát. Đây là sự ra đời của một hiện tượng cảnh sắc; nhưng nó không phải là lửa. Chúng ta thấy rằng ngọn lửa sau khi phát sinh, không ngừng phát triển. Đây là sự phát triển của hiện tượng vật chất; nhưng nó không phải là lửa. Chúng ta quan sát thấy ngọn lửa liên tục tiếp tục ở trạng thái bình thường. Đây là sự phát triển của hiện tượng vật chất, nhưng nó không phải là lửa. Chúng ta quan sát thấy rằng ngọn lửa đang tàn dần. Đây là sự suy tàn của hiện tượng vật chất; nhưng nó không phải là lửa. Chúng ta quan sát thấy rằng ngọn lửa đang tắt dần. Đây là cái chết của hiện tượng vật chất, nhưng nó không phải là lửa.Dĩ nhiên, thuộc tính nóng là lửa. Khi ngọn lửa lung linh nó chỉ là sự hiện diện của năm đặc điểm nổi bật này. Đôi khi đèn có thể bị rung khi tháo đèn ra, và trong trường hợp đó có thể nói rằng ngọn lửa lung linh là do gió. Do đó, năm đặc điểm nổi bật này là những thay đổi tiếp theo (annathabhava) của ngọn lửa, được gọi là Dấu hiệu của Vô thường. Bằng cách quan sát và ghi nhận năm đặc điểm nổi bật này, có thể hiểu rằng ngọn lửa là một thứ vô thường. Tương tự, đối với các sự vật có “chuyển động” là các pháp hữu vi, thì hành giả phải hiểu rằng “tất cả các pháp hữu vi là vô thường”. |
The mobile appearances of the most delicate atoms of matter which are not discernible by the human eye, are discovered by the help of that clever revealer of nature's secrets, the microscope. Through the discovery of these moving appearances, it is believed nowadays by certain Western people -- Leibnitz and Fechner, for example -- that these material phenomena are living creatures. But in truth they are not living creatures, and the moving appearances are due only to the reproduction of the material phenomena through the function of the physical change (utu). By reproduction we here mean the ācaya rūpa. In some organisms, of course, there may be living creatures in existence. |
Sự di động của các thành phần nguyên tử tinh tế nhất của sắc pháp mà mắt người không thể nhận thấy được, ngày nay nhờ sự trợ giúp của thiết bị kính hiển vi những thành phần vi tế của thiên nhiên được phát hiện. Thông qua việc phát hiện ra những hiện tượng chuyển động này, ngày nay một số người phương Tây - Ông Leibnitz một nhà bác học người Đức và Ông Fechner một nhà tâm lý học thực nghiệm người Đức, chẳng hạn - tin rằng những hiện tượng vật chất này là những sinh vật sống. Nhưng trên thực tế, chúng không phải là những sinh vật sống, và những hình tướng chuyển động chỉ là do sự tái tạo của các hiện tượng vật chất thông qua chức năng của sự thay đổi của nhiệt độ ( thời tiết -utu). Bằng cách sinh sản, chúng ở đây có nghĩa là Sắc Tích Lũy (ācaya rūpa). Tất nhiên, trong thân một số tế bào, có thể có những sinh vật sống tồn tại. |
When we look at the flowing water of a river or a stream, or at the boiling water in the kettle, we discern moving appearances. These are the reproductions of material phenomena produced by physical change. And in water which seems still or quiet to the naked eye, moving appearances will also be seen with the help of a miscroscope. These two are reproductions of material phenomena produced by physical change. Here, "reproductions" mean the constant integrations of new phenomena which are called acaya-rupas. By discerning the integrations of new phenomena, the subsequent deaths or disappearances of the old phenomena which are called the aniccatū rūpa,are also discernible. When the integration of new matter and the death of the old matter take place side by side, the santati rūpa is discernible. When the reproduction is excessive, the apacaya rūpa is discernible. When the death of old matter is excessive, the jaratā rūpa is discernible. We have shown above that in every tree, root, branch, leaf, sprout, flower, and fruit there are these five salient marks. So, when we look at them with the aid of a microscope, we see that they are full of very infinitesimal organisms moving about as if they were living creatures; but in fact these are mere reproductions of matter produced by physical change. |
Khi chúng ta nhìn dòng nước chảy của một dòng sông hay một dòng suối, hay nước đang sôi trong ấm, thì chúng ta thấy những hình tướng đang chuyển động. Đây là sự mô phỏng của các hiện tượng vật chất được tạo ra bởi sự thay đổi vật chất. Và trong nước dường như tĩnh lặng đối với mắt thường, các hiện tượng chuyển động cũng sẽ được nhìn thấy với sự trợ giúp của kính hiển vi. Hai cái này là sự mô phỏng của các hiện tượng vật chất được tạo ra bởi sự thay đổi vật chất. Ở đây, "sự tái sản xuất" này có nghĩa là sự tích hợp liên tục của các hiện tượng mới được gọi là sắc pháp ācaya rūpa. Bằng cách phân biệt các hợp nhất của các hiện tượng mới, các hiện tượng chết hoặc biến mất tiếp theo của các hiện tượng cũ được gọi là aniccatū rūpa (sắc vô thường) cũng được phân biệt rõ ràng. Khi sự hợp nhất của vật chất mới và sự diệt của sắc pháp cũ diễn ra song song với nhau, thì thì sắc liên tục (santati rūpa) được thấy rõ. Khi sự sinh sản quá mức, thấy rõ được sắc cũ rơi ra (apacaya rūpa). . Khi sự chết đi của vật chất cũ quá nhiều, thì thấy rõ sắc già (jaratā rūpa).. Trên đây chúng tôi đã chỉ ra rằng trong mỗi cái cây, rễ, nhánh, lá, mầm, hoa và quả đều có năm tướng nổi bật này. Vì vậy, khi quan sát chúng với sự trợ giúp của kính hiển vi, chúng ta thấy rằng chúng chứa đầy những sinh vật vô cùng nhỏ đang di chuyển như thể chúng là những sinh vật sống; nhưng trên thực tế, đây chỉ là những sự mô phỏng của sắc pháp được tạo ra bởi sự thay đổi vật lý. |
As regards the bodies of creatures or persons, these five salient marks are also discernible in every member of the body, such as, hair, hair of the body, finger-nails, toe-hails, teeth, the inner skin, the outer skin, muscles, nerves, veins big bones, small bones, marrow, kidney, heart, liver, membrane, lungs, intestines, entrails, undigested food, digested food, and the brain. So, when we look at them with the help of a microscope, moving organisms like very small creatures are seen. These are the reproductions of matter produced by Kamma, mind, food, and physical change. There may of course be microbes in some cases. Thus, if we look with the mind's eye, the mark of impermanence in all the matter of the whole body will clearly be discerned. |
Đối với thân của các chúng sinh hay con người, năm tướng nổi bật này cũng có thể thấy rõ ở mọi bộ phận của cơ thể, chẳng hạn như lông, lông trên cơ thể, móng tay, móng chân, răng, da trong, da ngoài. , cơ bắp, dây thần kinh, tĩnh mạch xương lớn, xương nhỏ, tủy, thận, tim, gan, màng, phổi, ruột, ruột, vật thực chưa tiêu hóa, vật thực đã tiêu hóa và não. Vì vậy, khi chúng ta nhìn chúng với sự trợ giúp của kính hiển vi, chúng ta sẽ thấy các sinh vật chuyển động giống như những sinh vật rất nhỏ. Đây là những sự mô phỏng của sắc pháp được tạo ra bởi Nghiệp, tâm, thực phẩm và sự thay đổi thời tiết. Tất nhiên có thể có vi khuẩn trong một số trường hợp. Như vậy, nếu chúng ta nhìn bằng con mắt của tâm, dấu hiệu vô thường trong mọi sắc vật của toàn thân sẽ được phân biệt rõ ràng. |
What has just been expounded is the mark of impermanence in the matter. |
Điều vừa được giải thích là dấu hiệu của sự vô thường trong sắc pháp. |
In mental phenomena, i.e., mind and its concomitants, the mark of impermanence which has two distinct features, the radical change (viparinama) and the subsequent change (annathabhava), is no less clearly to be seen. In the world, we all know that there are many different terms and expressions which are applied to the different modes and manners of the elements of mind and body which are incessantly rising and ceasing. For instance, there are two expressions, "seeing" and "not-seeing," which are used in describing the function of the eye. Seeing is the term assigned to the element of sight-consciousness; or, when we say "one sees," this is the term applied in describing the arising of sight-consciousness from the conjuncture of four causes, namely, eye-basis, visual-form, light, and attention. And when we say, "one does not see," this is the phrase we use in describing the non-existence of sight-consciousness. When, at night in the dark, no source of light is present, sight-consciousness does not arise upon the eye-basis; it is temporarily suspended. But it will arise when the light from a fire, for instance, is introduced. And when the light is put out, sight-consciousness also again will cease. As there are five salient marks present in the flame, if the light comes to be, seeing also comes to be, sight also arises. If the light develops, seeing also develops. If the light continues, seeing also continues. If the light decays, seeing also decays. And if the light ceases, then seeing also ceases. In the day-time also, these twin terms "seeing "not- seeing" may be made use of. If there is no obstruction, one sees; and if there is obstruction, one does not see. As regards eye-lids, if they are opened, one sees; and if they are shut, one does not see. What has just been expounded in the Viparinama and Annathabhava of sight- consciousness through the occasioning cause, light. In cases where the destruction of the eyebasis occurs after conception, sight consciousness also is lost for ever. If the visual form is taken away out of view, sight-consciousness also ceases. While sleeping, as there is no attention, so sight-consciousness subsides for some time. The genesis of all classes of consciousness that take part in the process of eye- door is to be understood by the term seeing"; and the subsidence of the same is to be understood by the term "not-seeing." |
Trong các hiện tượng Danh Pháp, tức là tâm và những tâm sở điều đi kèm với nó, dấu hiệu của vô thường có hai đặc điểm riêng biệt, sự thay đổi cơ bản (vipariṇāma) và sự thay đổi tiếp theo (aññathābhāva), cũng không kém phần rõ ràng. Trên thế giới, tất cả chúng ta đều biết rằng có nhiều thuật ngữ và cách diễn đạt khác nhau được áp dụng cho các phương thức và cách thức khác nhau của các yếu tố tâm và thân đang không ngừng sinh và diệt. Chẳng hạn, có hai cách diễn đạt, "thấy" và "không thấy", được dùng để mô tả chức năng của mắt. Cái thấy là thuật ngữ được gán cho yếu tố nhãn thức; hay, khi chúng ta nói “người ta thấy,” đây là thuật ngữ được áp dụng để mô tả sự sinh khởi của nhãn thức từ sự kết hợp của bốn nguyên nhân, Thần kinh nhãn, cảnh sắc, ánh sáng và tác ý. Và khi chúng ta nói, “người ta không thấy,” đây là cụm từ chúng ta dùng để mô tả sự không tồn tại của nhãn thức. Khi vào ban đêm trong bóng tối, không có nguồn sáng, nhãn thức không sinh khởi trên nhãn căn; nó tạm thời bị đình chỉ. Nhưng nó sẽ phát sinh khi ánh sáng từ ngọn lửa chẳng hạn được đưa vào. Và khi ánh sáng tắt đi, nhãn thức cũng sẽ ngừng lại. Vì trong ngọn lửa có năm tướng nổi bật, nếu có ánh sáng thì thấy cũng có. Nếu ánh sáng phát triển thì cái thấy cũng phát triển. Nếu ánh sáng tiếp tục, cái thấy cũng tiếp tục. Nếu ánh sáng suy tàn, cái thấy cũng suy tàn. Và nếu ánh sáng không còn, thì cái thấy cũng không còn nữa. Vào ban ngày cũng có thể dùng hai thuật ngữ "thấy "không thấy" này. Nếu không có chướng ngại thì thấy, có chướng ngại thì không thấy. Còn về mi mắt, nếu mở ra thì thấy, đóng lại thì không thấy. Điều vừa được giải thích trong vipariṇāma và aññathābhāva của nhãn thức thông qua nguyên nhân ngẫu nhiên, ánh sáng. Trong trường hợp nhãn cầu bị phá hủy sau khi thụ thai, nhãn thức cũng bị mất vĩnh viễn.
Nếu hình thức thị giác bị lấy đi khỏi tầm nhìn, thì nhãn thức cũng biến mất. Trong khi ngủ, vì không có chú ý, nên nhãn thức lắng xuống một thời gian. Nguồn gốc của tất cả các loại tâm tham gia vào tiến trình nhãn môn được hiểu bằng thuật ngữ thấy”; và sự lắng đọng của chúng được hiểu bằng thuật ngữ “không thấy”. |
Similarly in each function of hearing, smelling, tasting, and touching, a pair of expressions (existing or otherwise) is obtainable, and these must be dealt with as to their impermanency, i.e., vipariṇāma and aññathābhāva, in the same way as sight- consciousness. With regard to mind-cognition, it has many different modes, and each is apparent in its nature of vipariṇāma and aññathābhāva through the changes of the different kinds of thought. Among the mental concomitants, taking feeling for example, the changes of pleasure, pain, joy, grief, and hedonic indifference, are very evident. So also, the changes of perception, initial application, sustained application, from good to bad and vice versa, are very obvious. It may be easily noticed by anyone that in the single posture of sitting alone, greed, disinterestedness, hate, and amity, are each rising by turns. |
Tương tự như vậy, trong mỗi chức năng nghe, ngửi, nếm và xúc chạm, có thể đạt được một cặp biểu hiện (hiện hữu hay không) và những biểu hiện này phải được xử lý theo tính chất vô thường của chúng, tức là vipariṇāma và aññathābhāva, theo cách tương tự như đối với cảnh. ý thức. Đối với nhận thức tâm trí, nó có nhiều phương thức khác nhau, và mỗi phương thức hiện rõ trong bản chất của vipariṇāma và aññathābhāva thông qua những thay đổi của các loại tư tưởng khác nhau. Trong số những tâm sở đồng hành, lấy cảm giác làm ví dụ, những thay đổi của khoái cảm, đau đớn, hân hoan, đau buồn và thờ ơ khoái lạc, là rất rõ ràng. Cũng vậy, những thay đổi về nhận thức, cách áp dụng ban đầu, cách áp dụng lâu dài, từ tốt sang xấu và ngược lại, là rất rõ ràng. Khi ngồi yên một mình ai cũng có thể cảm nhận rằng tâm sinh khởi tham, sân, si, dễ dàng nhận thấy. |
What has just been expounded is the impermanence of mental phenomena. So much for the Mark of lmpermanence. |
Những điều vừa được giải thích là sự vô thường của danh pháp. Dấu ấn của sự vô thường thì có quá nhiều. |
Of The Mark Of IllBriefly speaking, the marks of impermanence in vipariṇāma and aññathābhāva may also be called the Mark of Ill, for they are to be feared by the wise in |
Dấu Ấn của Khổ ĐauNói một cách ngắn gọn, các tướng của vô thường trong Sự thay thế (vipariṇāma) và sự biến đổi (aññathābhāva) Cũng có thể được gọi là Dấu Ấn của Khổ Đau, vì chúng đáng sợ đối với những người Trí |
Samsara, the evolution of life. Why are they to be feared by the wise? Because, in the world, the dangers of decay and death are the dangers, most to be feared. Viparinama is nothing but momentary decay and death; it is the road to death, and to |
Luân Hồi (Samsara), Sau khi chết sẽ tái sinh đó là sự luân hồi trong sự sống chết. Tại sao người trí sợ hãi? Bởi vì, trên thế giới, mối nguy hiểm của sự thối rữa và cái chết là mối nguy hiểm đáng sợ nhất. Sự thay thế (vipariṇāma) chẳng là gì ngoài sự suy tàn và chết chóc trong từng sát na; và đó cũng là con đường dẫn đến cái chết, và tới |
vipariṇāma (the dispersion of life into different spheres). All creatures remain alive without removing to another existence only because they are sustained by various methods of preservation. |
Sự biến hoại (vipariṇāma) (sự tái sinh vào các cảnh giới khác nhau). Tất cả các chúng sinh vẫn còn sống mà không chuyển sang một sự tồn tại khác chỉ vì chúng được duy trì bằng các phương pháp sống khác nhau. |
vipariṇāma is also to be feared on account of the disadvantages which may fall on ourselves. |
sự biến đổi (vipariṇāma) cũng đáng sợ vì những bất lợi có thể rơi vào chính chúng ta. |
ācaya, upacaya and Santati which are the features of aññathābhāva, may also bring many disadvantages. They may establish in the physical body many kinds of disease and ailments. They may establish in the mental continuum many kinds of afflictions (Kilesa), many kinds of hallucination, and many other disadvantages. Every material phenomenon possesses these two marks of impermanence; and also every mental phenomenon pertaining to |
Khởi sinh (ācaya), hiện sinh (upacaya và tiếp diễn (santati) là những đặc điểm của biến đổi đặc tính (aññathābhāva), cũng có thể mang lại nhiều bất lợi. Chúng có thể tạo trong cơ thể nhiều loại bệnh tật và khổ đau. Chúng có thể tạo trong dòng tâm thức nhiều loại phiền não (Kilesa), nhiều loại ảo giác, và nhiều bất lợi khác. Mọi pháp hữu vi đều mang hai dấu ấn vô thường này; và cũng như mọi hiện tượng danh sắc liên quan đến |
kāma-loka rūpa-loka and Arupa-loka has the same two marks of Impermanence. Therefore the existences, or the bodies (comprising the mentals and materials) of men, Devas, and Brahmas are all subject to Ill. The two marks of impermanence being always present there are approximately three different marks of Ill, to wit: |
trong cõi dục (kāma-loka) cõi Sắc (Rupa-loka) hay cõi Vô sắc (arūpa -loka). Hai cách của tướng vô thường dẫn đến nhiều loại khổ như nhau. Do đó, sự tồn tại, hay cơ thể (bao gồm danh và sắc) của con người, chư thiên và Phạm thiên đều phải chịu sự ảnh hưởng của đau khổ.Hai dấu hiệu của sự vô thường luôn hiện diện, có ba loại đau khổ khác nhau, là: : |
dukkhadukkhatā, saṅkhāradukkhatā, and vipariṇāmadukkhatā. Dukkhadukkhatā means both bodily (kayika) and mental (cetasika) pains. Sankhara-dukkhata is the state of things (i.e. material and mental phenomena) which exists only if they are always determined, conditioned, and maintained with a great deal of exertion in every existence. The existences or the bodies (khandas or the sum total of a being) of Brahmas have a great amount of Sankharadukkha. Hardly one out of a hundred, who has abandoned all sensual pleasures, renounced the world, and practised the "Stations" without regard to his own life, hereafter attains the existence of a Brahma. Though people know that such existence is a very good thing, they do not venture to practise them, for they take them to be very hard, difficult and paingiving. When Jhanadhammas and supernormal intellections are attained, they must be maintained with great care and trouble, for if not, they are liable to recession in a moment upon the most trifling occasion. |
Khổ khổ (dukkhadukkhatā), hành khổ (saṅkhāradukkhatā), và hoại khổ (vipariṇāmadukkhatā). Khổ Khổ (Dukkhadukkhatā) Là đau đớn trên cơ thể (kāyika) và sầu khổ trong tâm (cetasika). Hành Khổ (Sankhara-dukkhata) Là sự thay đổi, biến chuyển của danh sắc, chúng dẫn đến khổ khi diệt mất. Chúng chỉ được duy trì với một nổ lực lớn trong mỗi kiếp sống. Sự biến chuyển hay thay đổi (khandas hoặc tổng số của một chúng sinh) hơn của Phạm thiên một lượng lớn Hành Khổ Sankharadukkha. Hầu như không có ai trong số một trăm người đã từ bỏ mọi dục lạc, từ bỏ thế giới và sống đời sống xuất gia mà không quan tâm đến mạng sống của chính mình, sau đó đạt được tái sinh tại của một cõi Phạm thiên. Mặc dù mọi người biết rằng sự tồn tại như vậy là một điều rất tốt, nhưng họ không mạo hiểm thực hành chúng, vì họ cho rằng chúng rất khó được, khó khăn và đau đớn. Khi đạt được các định thiền và trí tuệ siêu nhiên, chúng phải được duy trì hết sức cẩn thận vì nếu không, chúng có thể bị suy thoái trong giây lát trong một dịp nhỏ nhặt nhất. |
vipariṇāmadukkhatā is the state of destruction, or the state of death after conception, if circumstances are favourable to the same at any time, day or hour. The existences, or the bodies, of men, Devas and Brahmas are the real Ills, since they are severally subject to the said three marks of Ill. |
hoại khổ (vipariṇāmadukkhatā).là trạng thái hủy diệt, hay trạng thái chết sau khi thụ thai, nếu hoàn cảnh thuận lợi xảy ra vào bất kỳ thời điểm, ngày hay giờ nào. Sự tồn tại, hay cơ thể, của con người, chư Thiên và Phạm thiên là những nỗi Khổ thật sự, vì chúng là đối tượng nghiêm trọng của ba ấn tướng của Đau Khổ nói trên. |
Speaking broadly, there are eleven marks of Ill:
Of these, Jāti means birth or reproduction. It is of three kinds, to wit: kilesajāti: birth of defilements, kammajāti: birth of actions, and Vipākajāti: birth of effects. |
Nói rộng ra thì có 11 loại khổ là:
Trong số này, Jāti có nghĩa là sinh hoặc sinh sản. Nó có ba loại, nghĩa là: kilesajāti: phiền não sinh ra, kammajāti: là nghiệp sinh ra các hành động, và Vipākajāti: quả của nghiệp sinh ra các kết quả. |
Of these three, Kilesajati is the birth or the reproduction of defilements such as, greed, hate, dullness, error, conceit, and so forth. |
Trong ba điều này, kilesajāti là sự sinh ra đời hay tái sinh của những phiền não như tham, sân, si, lầm lạc, ngã mạn, v.v. |
Vipākajāti is the birth or reproduction of different kinds of diseases, different kinds of ailments, and different kinds of painful feelings in the body, or the reproduction of mean and low existence such as those of birds and animals, and so forth. Among the kilesajāti, greed is very fierce and violent. It will rise at any time it finds favourable circumstance, like fire fed with gunpowder. When it rises it can with difficulty be suppressed by any means whatever; it will develop in volumes in an instant. Hence, it is a real "Ill," since it is very much to be feared by all Ariyas. The like should be understood in connection with hate, dullness, and so forth, which ethically are one thousand and five hundred in number. Just as a hill which is the abode of very poisonous serpents is feared and no one dares to approach it, so also the existences of men, Devas and Brahmas are feared; and no Arjya dare approach them with the views: "Myself" and "My body," for they are the birth-places of the said defilements. Therefore they are real "Ills" that are to be feared. |
Vipākajāti là Quả (của nghiệp) sinh là sự sinh ra hay tái sinh của các loại khổ thọ, các loại đau ốm khác nhau và các loại cảm giác đau đớn khởi lên trong cơ thể, hoặc sự sinh sôi nảy nở vào những cảnh giới khổ và thấp kém như chim và thú, v.v. Trong số các kilesajāti là phiền não sinh là, lòng tham rất dữ dội và bạo lực. Nó sẽ trỗi dậy bất cứ lúc nào gặp hoàn cảnh thuận lợi, giống như lửa được đốt bằng thuốc súng. Khi nó nổi lên, nó có thể khó bị dập tắt bằng bất cứ cách nào; nó sẽ phát triển đến đỉnh cao nào đó. Do đó, nó là một "Khổ đau" thực sự, vì nó rất đáng sợ đối với tất cả các bậc Thánh. Những điều tương tự nên được hiểu trong mối liên hệ với sự ghét bỏ, buồn tẻ, v.v., mà về mặt đạo đức tính rộng thì có đến 1.500 loại phiền não. Giống như một ngọn đồi là nơi ở của những con rắn rất độc được sợ hãi và không ai dám đến gần nó, cũng vậy sự tồn tại của con người, chư Thiên và Phạm thiên cũng bị sợ hãi; và không vị Thánh Arjya nào dám tiếp cận chúng với quan điểm: "Tôi" và "Cơ thể của tôi", vì chúng là nơi sinh ra những ô nhiễm nói trên. Do đó, chúng là những "Khổ đau" thực sự đáng sợ. |
Of the kammajāti, immoral actions of body, speech, and thought are the developments of the defilements. Therefore they are equally as fierce as the defilements. Hence this Kammajati is also a real "Ill" to be feared by all Ariyas. Just as the villages where thieves and robbers take up their quarters are feared, and good people do not venture to approach them, so also the existences of men, Devas and Brahmas are feared, and no Ariya dare approach them with such views as "Myself" and "My body," for they are the birth-places of the said kammajāti. |
Trong kammajāti là nghiệp sinh, những hành động bất thiện của thân, khẩu và ý là sự phát triển của phiền não. Vì vậy, chúng cũng dữ dội như phiền não. Do đó, kammajāti này cũng là một "Khổ đau" thực sự mà tất cả các bậc Thánh đều phải sợ hãi. Giống như người ta sợ hãi những ngôi làng nơi bọn trộm cướp chiếm đóng, và những người tốt không dám đến gần họ, cũng vậy sự tồn tại của con người, chư Thiên và Phạm thiên đều bị sợ hãi, và không một vị Thánh nào dám đến gần họ với quan điểm như "Tôi". " và "Thân thể tôi," vì chúng là nơi sinh của kammajāti nghiệp sinh đã nói. |
Of the vipākajāti, owing to the dreadfulness of kilesajāti and kammajāti, vipākajāti the rebirth into the planes of misery is likewise always a terrible thing in the revolution of existences. |
Về quả (của nghiệp) sinh (vipākajāti), do sự khủng khiếp của kilesajāti Phiền não sinh và kammajāti nghiệp sinh, quả của nghiệp sinh vipākajāti, sự tái sinh vào các cõi khổ cũng luôn luôn là một điều khủng khiếp trong vòng luân hồi của các kiếp sống. |
Therefore the existences of men, and so forth, to which the vipākajāti together with the kilesajāti and the kammajāti are joined, are real "Ill." The moral actions and the fortunate realms furnish food for the defilements, fuel for the flames of the defilements, so that the birth of moral actions and the birth of results therefrom, are all obtainable in the kilesajāti. So much for the Jātidukkha. |
Do đó, sự tồn tại của con người, v.v., mà quả (của nghiệp) sinh (vipākajāti). cùng với Phiền não sinh (kilesajāti) và nghiệp sinh (kammajāti) chúng liên kết với nhau, là "Khổ đau" có thật. Các thiện nghiệp , tuy dẫn đến cảnh giới tốt lành hơn nhưng chính đó là nơi cung cấp thức ăn cho phiền não, đốt cháy ngọn lửa của các phiền não, do đó sự sinh ra các thiện nghiệp và sự sinh ra các kết quả từ đó, tất cả đều có thể đạt được trong phiền não kilesajāti. Quá nhiều cho sinh là khổ Jātidukkha. |
Concerning the jarādukkha and Maraṇadukkha: these are the momentary decays and deaths which follow a being from the moment of conception, and are at all times ready to cause him to fall in decay, death, or unfortunate realms whenever opportunities for the same occur. They also obtain in connection with Viparinamadukkha; and since they dog the steps of all living beings in every existence from the moment of conception, the existences of men, Devas and Brahmas are real "Ill". So much for the jarādukkha and Maraṇadukkha. |
Liên quan đến già khổ (jarādukkha) và chết khổ (Maraṇadukkha): đây là những sự suy tàn và cái chết từng sát na đi theo sau một chúng sinh từ thời điểm thụ thai, và luôn sẵn sàng khiến anh ta rơi vào sự suy tàn, cái chết hoặc những cõi bất hạnh bất cứ khi nào có cơ hội cho điều tương tự xảy ra. Chúng cũng có liên quan đến Hoại Khổ (Viparinamadukkha); và vì chúng theo dõi bước đi của tất cả chúng sinh trong mọi sự tồn tại kể từ thời điểm thụ thai, nên sự tồn tại của con người, chư Thiên và Phạm thiên "Khổ đau" là có thật. Quá nhiều cho già khổ (jarādukkha) và chết khổ (Maraṇadukkha). |
Sokadukkha, Paridevadukkha, Kayikadukkha, Cetasikadukkha, and Upayasadukkha, always follow the existences of men and Devas, ready to arise whenever an opportunity occurs. The realms of the Niraya and the Peta worlds are the realms of sorrow, lamentation, pain, grief and despair. |
Buồn Khổ (Sokadukkha), Than van khổ (Paridevadukkha), Khổ thân (kāyika dukkha), Khổ Tâm (Cetasikadukkha), và Khổ đau (upāyāsadukkha), luôn theo sự hiện hữu của loài người và chư Thiên, sẵn sàng xuất hiện bất cứ khi nào có cơ hội. Các cõi địa ngục (Niraya) và ngạ quỉ (Peta) là các cõi của sầu, bi, đau, sầu và tuyệt vọng. |
So much for the five kinds of Dukkha. To come into union with persons, creatures, things, objects with which one does not wish to unite or does not wish even to see, is Apiyasampayoga Dukkha. |
Năm loại khổ này là rất nhiều. Kết hợp với con người, sinh vật, sự vật, đồ vật mà người ta không muốn kết hợp hoặc thậm chí không muốn nhìn thấy, là Khổ do không thương mà phải gần (Apiyasampayoga Dukkha). |
Separation from persons, creatures, things and objects which one always wishes to meet or be united with, from which one never wishes to be parted in life or by death -- this is Piyavippayogadukkha. |
Xa rời con người, sinh vật, sự vật và đồ vật mà người ta luôn mong muốn được gặp gỡ hoặc được kết hợp với, mà người ta không bao giờ muốn chia lìa trong cuộc sống hay cái chết - đây là Khổ do thương mà phải xa ( Piyavippayogadukkha). |
To strive hard, but all in vain, to obtain anything is Icchavighatadukkha. |
Cố gắng tranh đấu, nhưng tất cả đều vô ích, để đạt được bất cứ điều gì là Khổ do ghét phải gặp (icchāvighātadukkha). |
These "Ills" or Dukkhas are very numerous and very evident, and are also frequently met with in the world. Hence the existences, or the bodies of men, Devas and Brahmas are real "Ills." Of these eleven varieties of Dukkha, birth, decay and death, are the most important. So much for the Mark of "Ill." |
Những "Khổ đau" hay Dukkhas này có rất nhiều và rất rõ ràng, và cũng thường gặp trên thế giới. Do đó, sự tồn tại, hay cơ thể của con người, Chư Thiên và Phạm Thiên là cái "đau khổ" có thật. Trong số mười một loại Khổ này, sinh, già và chết là quan trọng nhất. Quá nhiều cho dấu ấn của "Khổ đau." |
AnattaThe mark by which mental and material phenomena are to be understood as No-soul is called the |
Vô NgãDấu ấn mà các Danh Pháp và Sắc Pháp được hiểu là Không có Ngã được gọi là |
Anatta-lakkhana or the Mark of No-soul. In considering the word Anatta, the meaning of Atta ought first to be understood. Atta in ordinary sense means essence, or substantiality. By essence or substantiality is meant, as we have already explained in connection with Ultimate Truth, the earth which is the essence or the substantiality of pot. The word "pot" is merely the name by which is indicated a certain pictorial idea (santhanapannati); it is not a name for earth. And a pictorial idea possesses no essence or substantiality as an ultimate thing; here earth alone is ultimate thing and possesses essence or substantiality. If the question is asked:"Does such a thing as pot exist in the world?" those who are unable to differentiate between the two kinds of truth, ultimate and conventional, would answer that the pot exists. These should then be asked to point out the pot. They will now point to an earthen pot near at hand, saying: "Is not that a pot?" But it is not correct of them thus to allege that earth is pot; it is a false allegation. Why is it a false allegation? Simply because earth is an ultimate thing and has essence or substantiality; while pot is a mere conception having no essence or substantiality, and thus, like space, is void. To allege of earth that it is pot, is in effect to try to make out that essential earth constitutes the essence or substantiality of pot, which is actual fact, seeing that pot as a mere representation of the mind, possesses no substantial essence whatever. Here, what actually is non-existent pot becomes existent pot, and earth also becomes |
Anattā-lakkhana - Tướng Vô Ngã hoặc Dấu hiệu Vô Ngã. Khi xem xét từ vựng Anatta, Theo nghĩa thông thường của Ngã - Atta đầu tiên phải được hiểu. Ngã - Atta theo nghĩa thông thường có nghĩa là bản chất, hoặc thực chất. Như chúng ta đã giải thích liên quan đến Chân Đế, bản chất hay thực chất có nghĩa là đất là bản chất hay bản thể của cái bình. Từ "nồi" chỉ đơn thuần là tên được chế định một ý tưởng hình ảnh nhất định (santhana-paññatti'); nó không phải là một tên cho đất. Và một ý tưởng hình ảnh không có bản chất hay thực chất như một điều tối hậu; ở đây chỉ có đất là điều tối thượng và sở hữu bản chất hoặc thực chất. Nếu câu hỏi được đặt ra: "Liệu một thứ như cái nồi có tồn tại trên thế giới không?" những người không thể phân biệt giữa hai sự thật - tục đế và chân đế, sẽ trả lời rằng cái bình tồn tại. Những người này sau đó nên được yêu cầu chỉ ra cái nồi. Bây giờ họ sẽ chỉ vào một cái nồi đất gần đó và nói: "Đó không phải là một cái nồi sao?" Nhưng họ cho rằng đất là cái nồi là không đúng; đó là một nhận định sai. Tại sao nó là một nhận định sai? Đơn giản vì đất là một thứ tối hậu và có bản chất hoặc thực thể; trong khi cái bình chỉ là một quan niệm đơn thuần không có bản chất hay thực chất, và do đó, giống như không gian, là trống rỗng. Lập luận rằng trái đất là cái nồi, có nghĩa là cố gắng chỉ ra rằng yếu tố đất cần thiết cấu tạo thành bản chất hoặc thực chất của cái bình, đó là sự thật thực tế, coi cái bình đó chỉ là một đại diện của tâm trí, không có bản chất thực chất nào cả. Ở đây, cái bình thực sự không tồn tại trở thành cái bình hiện hữu, và đất làm thành |
Atta of the earth, so that earth and pot become one and the same thing, the identity of the one is confused with the identity of the other. For this reason it is that we call this a false allegation. In this illustration, "earth" corresponds with the Five Aggregates or their constituents, material and mental phenomena, while "pot" corresponds with persons and living creatures. Just as earth becomes the essence of pot in the statement that the earth is the pot; so also the Five Aggregates or their constituents become the |
Ngã - Atta của đất, do đó để đất và nồi trở thành một và giống nhau, danh tính của cái này bị nhầm lẫn với danh tính của cái kia. Vì lý do này, chúng ta gọi đây là một nhận thức sai. Trong minh họa này, "đất" tương ứng với Năm uẩn hoặc các thành phần của chúng, các sắc và danh, trong khi "cái bình" tương ứng với con người và các sinh vật sống. Giống như đất trở thành bản chất của cái nồi trong tuyên bố rằng đất là cái nồi; do đó, Năm uẩn hoặc các thành phần của chúng trở thành |
Atta or the essence of persons and creatures, when it is said that the Aggregates are persons and creatures. This is the meaning of |
Ngã - Atta hay bản chất của con người và sinh vật, khi người ta nói rằng Uẩn là con người và sinh vật. Đây là ý nghĩa của |
Atta. Now for Anatta. In the expression "earthern pot"; if one is able to discern that earth is one thing, and pot another, and that earth is an ultimate thing and pot a mere conception of the mind; and again, that earth is not pot, and pot is not earth, and also that it is false to call earth a pot, and to call pot, earth; then the earth becomes not the essence or Atta of the pot, but becomes Anatta: while at the same time also, pot is seen to be void like space, since it is a mere conception of form. A like result is obtained if one is able to discern the Five Aggregates and the material and mental phenomena thus: The Fivefold set of Aggregates are ultimate things; persons and creatures are ideas derived from the forms and the continua; hence the phenomena are not persons and creatures; and persons and creatures are not the phenomena. If the phenomena are called persons and creatures, this is a false naming of them; and if persons and creatures are called the phenomena, this is false too. Accordingly the phenomena become, not the essence of persons and creatures, but become Anatta, or the reverse of substantial essence. And also, persons and creatures become quite evidently void and empty, inasmuch as they are mere ideas derived from the forms and continua of the phenomena. |
Ngã - Atta. Bây giờ nói về Vô Ngã Anatta. Trong thành ngữ "nồi đất"; nếu một người có thể phân biệt rằng đất là một thứ, và nồi là một thứ khác, và đất là một thứ tối hậu và chỉ là một quan niệm đơn thuần của tâm; và lại nữa, đất không phải là cái nồi, và cái nồi không phải là đất, và cũng sai khi gọi đất là cái nồi, và gọi cái nồi là đất; sau đó đất không trở thành bản chất hay Atta của cái bình, mà trở thành Vô ngã: đồng thời, cái bình cũng được coi là trống rỗng như không gian, vì nó chỉ là một quan niệm về hình thức. Một kết quả tương tự đạt được nếu một người có thể phân biệt Năm Uẩn và các hiện tượng vật chất và tinh thần như sau: Năm Uẩn là những sự vật tối hậu; con người và sinh vật là những ý tưởng bắt nguồn từ các hình thức và sự liên tục; do đó các hiện tượng không phải là con người và sinh vật; và con người và sinh vật không phải là hiện tượng. Nếu các hiện tượng được gọi là con người và sinh vật, đây là một cách đặt tên sai cho chúng; và nếu người và sinh vật được gọi là hiện tượng, điều này cũng sai. Theo đó, các hiện tượng trở thành, không phải là bản chất của con người và sinh vật, mà trở thành Vô Ngã Anatta, hay mặt trái của bản chất thực chất. Ngoài ra, con người và sinh vật trở nên hoàn toàn trống rỗng và trống rỗng, bởi vì chúng chỉ là những ý tưởng bắt nguồn từ các hình thức và sự liên tục của các hiện tượng. |
What has just been said is in exposition of the meaning of Anatta. |
Điều vừa được nói là để giải thích ý nghĩa của Vô ngã. |
The marks of Impermanence and Ill expounded in the foregoing pages are also the marks of No-soul (Anatta). How ? It is supposed that the ideas (paññatti) of persons and creatures are eternal and immortal both in this existence and in those that follow, and it has been explained that the phenomena are not eternal since they are subject to momentary decays and deaths which are the marks of impermanence; and also because they are constantly ceasing and being reproduced many times beyond possibility of beeing numbered, even in one day, the which is the mark of that kind of impermanence known as aññathābhāva. |
Những đặc tính của Vô thường và Khổ đau đã được trình bày ở những trang trước cũng là những dấu hiệu của Vô ngã (Anatta). Như thế nào? Người ta cho rằng ý tưởng (paññatti) của con người và sinh vật là vĩnh cửu và bất tử cả trong kiếp này và kiếp sau, và người ta đã giải thích rằng các hiện tượng không phải là vĩnh cửu vì chúng có thể bị suy tàn và chết trong từng sát na. tướng vô thường; và cũng bởi vì chúng liên tục diệt và sinh nhiều lần không thể đếm được, thậm chí trong một ngày, đó là dấu hiệu loại vô thường được gọi là loại biến đổi tính chất (aññathābhāva), |
In Buddhist philosophy there are three things which are "eternal and immortal", in the sense in which that phrase is here used in the text. These three things are called in the Pali, paññatti (plural, paññattiyo), Ākāsa, and nibbana, that is: Concepts (or ideas), Space and that which supervenes when Craving, Hate and Delusion are completely wiped out. Of these three things it is held that their existence is something which has nothing whatever to do with time, never enters time, is never limited by time. The law of Rise-and-fall, of arising and ceasing, which applies to all things else, does not apply to them. They exist independent of whether any particular being thinks them or not. In other words: they are eternal and immortal and independent of time, not in any sense of being unbrokenly continuous in time. Nibbana is distinguished from the two other "eternal and immortal" things in that it has Santilakkhana or it is Santibhava, a word which may be rendered quite accurately in English (if not literally, at least in accord with its spirit) as "The Great Peace" and all that this implies. (Trb,) But in the ideas (paññatti) of persons and creatures no marks of vipariṇāma and aññathābhāva are to be seen. lf such marks were to be found in the ideas (paññatti) of persons and creatures, then, of course, the ideas of paññattiyo would also be subject to births, decays, and deaths, and would be reborn and decay and die many times even in one day. But these marks are not to be found in the paññatti or ideas; we discern these marks only in the mental and material phenomena. Therefore it comes to this, that the mental and material phenomena, that is, Nama-rupa- dhamma are not to be regarded as the essence or substantiality of persons and creatures. It is in this way that the mark of "No-soul" becomes the mark of impermanence, in accordance with the Text: "Asarakatthena anatta," or, "On account of being without a core, the word Anatta is used." |
Trong triết học Phật giáo có ba điều "trường tồn và bất tử", theo nghĩa mà cụm từ đó được sử dụng trong văn bản này. Ba thứ này trong tiếng Pali được gọi là chế định paññatti (số nhiều, paññattiyo) đó là, không gian Ākāsa, và nibbana, nghĩa là: Khái niệm (hay ý tưởng), Không gian và những gì khởi nên khi Tham, Sân và Si hoàn toàn bị xóa bỏ. Trong ba thứ này, người ta cho rằng sự tồn tại của chúng là thứ không liên quan gì đến thời gian, không bao giờ đi vào thời gian, không bao giờ bị thời gian giới hạn. Quy luật sinh diệt, sinh diệt, áp dụng cho các pháp hữu vi, không áp dụng cho nibbana. Chúng tồn tại độc lập cho dù có bất kỳ sinh vật cụ thể nào nghĩ chúng hay không. Nói cách khác: chúng là vĩnh cửu, bất tử và độc lập với thời gian, không có nghĩa là liên tục không gián đoạn trong thời gian. Nibbana được phân biệt với hai thứ "trường cửu và bất tử" khác ở chỗ nó có Có một là trạng thái yên tịnh (Santilakkhana) hoặc nó là Santibhava, một từ có thể được dịch khá chính xác trong tiếng Anh (nếu không chính xác, ít nhất là phù hợp với tinh thần của nó) là "Sự tĩnh lặng hoàn toàn" và tất cả những gì điều này ngụ ý. (Trb,) Nhưng trong chế định paññatti của con người và sinh vật, không có dấu vết của Thay thế (vipariṇāma) và biến đổi (aññathābhāva).. Nếu những dấu hiệu như vậy được tìm thấy trong các ý tưởng (paññatti) của con người và sinh vật, thì dĩ nhiên, các ý tưởng của paññattiyo cũng sẽ phải chịu sự sinh, lão hóa và chết, và sẽ được tái sinh và suy tàn và chết đi nhiều lần ngay cả trong một ngày. Nhưng những dấu hiệu này không được tìm thấy trong chế định paññatti hoặc ý tưởng; chúng ta chỉ phân biệt những tướng này trong các hiện tượng tinh thần và vật chất. Do đó, điều này dẫn đến việc các hiện tượng tinh thần và vật chất, tức là Danh-Sắc- Pháp không được coi là bản chất hay thực chất của con người và sinh vật. Theo cách này, dấu hiệu của "Vô ngã" trở thành dấu hiệu của vô thường, phù hợp với Văn bản: "Asarakatthena anatta," hoặc, "từ Anatta được sử dụng vì nó không có thực chất." |
How does the mark of Ill become the mark of Impermanence? The marks of Ill are very evil, very disadvantageous, and very unsatisfactory; and all creatures desire to be in good states, to be prosperous, and to be satisfied. If mental and material phenomena are the true essence of persons and creatures the phenomena and the person must be one and the same. And if this be so, their desires must also be one and the same; that is, the person's desire must also be that of the phenomena, and vice-versa. But if this is not so, then each must be a thing separate from the other. Here by "person's desire" we mean Greed (lobha) and Desire-to-do (chanda) and by "the desire of phenomena," the happening of things in accordance with their cause. A main characteristic of persons and creatures is the craving for happiness of mind and body; and an outstanding feature of phenomena is their uniformity with their causes or conditioning things: that is, the arising and the ceasing of phenomena are subject to causes, and never entirely in accordance with the desires of persons in defiance of causes. For example: if warmness is wanted the cause that produces warmness must be sought out; or if coldness is wanted, the cause that produces coldness must be sought out. If long life is wanted, the conditioning cause, a supply of suitable food daily, must be sought out; for no man can live long merely by wishing to live long. And if rebirth in the worlds of the Fortunate is wanted, then the cause of this, moral or virtuous deeds, must be sought out; for no one can get to the worlds of the Fortunate merely by wishing to be reborn there. It is sometimes erroneously thought or believed that one can be whatever one wishes to be, upon occasions when something one has wished for is later on fulfilled, although the actual fact is that it has come about only in accordance with a cause that has previously been sought out and brought into play. It is falsely thought or believed by many people that one can maintain oneself according to one's wish when in sound health or at ease in any of the four bodily postures, ignoring the fact that the cause, the partaking of food on previous days, was sought out by them and brought into play. They also mistakenly think that their wishes are always fulfilled, when they find themselves living happily in buildings previously in existence. But in truth, if one looks about him in this world and sees how great and how numerous are the businesses affairs, occupations and so forth, of men in all their extent and variety, he will soon discern with the mind's eye that the Sankharadukkha, the Dukkha associated with the Sankharas, is great and manifold in precisely the same measure as men's activities. And this Dukkha is due to the begetting or the establishing of the causes necessary to the acquiring of the effects desired; for the phenomena can never become exactly all that beings may wish them to be, or may give orders that they are to be. Thus simply in beholding the marks of Sankharadukkhata all about us, it becomes evident that phenomena do not conform themselves to the desires of persons and creatures, and hence they are not their essence or substance. |
Làm sao tướng Khổ đau trở thành tướng của Vô thường? Các dấu hiệu của khổ đau là rất xấu, rất bất lợi và rất bất toại nguyện; và mọi chúng sinh đều mong muốn được ở trong những trạng thái tốt đẹp, thịnh vượng và hài lòng. Nếu các hiện tượng danh và sắc là bản chất thực sự của con người và tất cả chúng sinh thì hiện tượng và con người phải là một và giống nhau. Và nếu đúng như vậy, mong muốn của họ cũng phải là một và giống nhau; nghĩa là mong muốn của con người cũng phải là mong muốn của mọi chúng sinh và ngược lại. Nhưng nếu không phải như vậy, thì cái này phải là một thứ tách biệt với cái kia. Ở đây "ham muốn của con người" chúng ta muốn nói đến Tham lam (lobha) và Dục vọng (chanda) và "ham muốn về hiện tượng," sự việc xảy ra theo nguyên nhân của chúng. Một đặc điểm chính của con người và sinh vật là khao khát hạnh phúc của danh và sắc; và một đặc điểm nổi bật của các hiện tượng là tính đồng nhất của chúng với các nguyên nhân hoặc các sự vật điều kiện của chúng: nghĩa là, sự sinh diệt của các pháp là do nhân, và không bao giờ hoàn toàn thuận theo ý muốn của con người bất chấp nguyên nhân. Ví dụ: muốn ấm thì phải tìm nguyên nhân sinh ra ấm; hoặc nếu muốn lạnh, thì phải tìm ra nguyên nhân gây ra lạnh. Nếu muốn sống lâu, phải tìm ra nguyên nhân điều kiện, một nguồn cung cấp thực phẩm thích hợp hàng ngày; vì không ai có thể sống lâu chỉ bằng cách mong muốn sống lâu. Và nếu muốn được tái sinh trong những thế giới may mắn, thì nguyên nhân của điều này, những hành động đạo đức hay đức hạnh, phải được tìm ra; vì không ai có thể đến được thế giới của những người may mắn chỉ bằng cách mong muốn được tái sinh ở đó. Đôi khi người ta nghĩ hoặc tin một cách sai lầm rằng một người có thể trở thành bất cứ điều gì mình muốn, trong những trường hợp khi điều gì đó mà người ta mong ước sau đó được hoàn thành, mặc dù sự thật là điều đó chỉ xảy ra theo một nguyên nhân đã được xác định trước đó mà họ đã tìm kiếm và đưa vào. Nhiều người lầm tưởng hoặc tin tưởng rằng một người có thể duy trì bản thân theo ý muốn của mình khi có sức khỏe tốt hoặc thoải mái trong bất kỳ tư thế nào trong bốn tư thế của cơ thể (đi, đứng, nằm ngồi), bỏ qua thực tế rằng nguyên nhân, việc ăn uống vào những ngày trước đó, mà họ đã tiêu thụ. Họ cũng lầm tưởng rằng những điều ước của họ luôn được thực hiện, khi họ thấy mình đang sống hạnh phúc trong những tòa nhà đã tồn tại trước đây. Nhưng trên thực tế, nếu một người nhìn quanh anh ta trong thế giới này và thấy các công việc kinh doanh, nghề nghiệp, v.v. của con người vĩ đại và nhiều đến mức nào, ở tất cả mức độ và sự đa dạng của chúng, anh ta sẽ sớm nhận ra bằng con mắt của tâm trí rằng saṅkhāradukkha, Khổ đau Dukkha liên quan đến các hành saṅkhāra, rất lớn và đa dạng theo cùng một mức độ chính xác như các hoạt động của con người. Và Khổ đau Dukkha này là do sự sinh ra hoặc tạo nên những nguyên nhân cần thiết để đạt được những kết quả mong muốn; vì các hiện tượng không bao giờ có thể trở thành chính xác tất cả những gì chúng sinh có thể mong muốn chúng trở thành, hoặc có thể ra lệnh rằng chúng phải như vậy. Vì vậy, khi trông thấy các tướng trạng của khổ hành saṅkhāradukkhatā xung quanh chúng ta, rõ ràng là các hiện tượng không tuân theo mong muốn của con người và chúng sinh, và do đó chúng không phải là bản chất hay thực chất của chúng. |
In addition to this it is also to be noted well how conspicuous is non-substantiality with regard to Dukkhadukkhata, Viparinamadukkhata, Jatidukkha, Jaradukkha, Maranadukkha, and so forth. |
Thêm vào đó, cũng cần lưu ý rằng tính không thực chất dễ thấy như thế nào đối với cái Khổ Khổ - Dukkhadukkhata, Hoại Khổ -Viparinamadukkhata, Sinh Khổ - Jatidukkha, Già Khổ - Jaradukkha, Chết Khổ - Maranadukkha, v.v. |
So much for the mark of Anatta from the standpoint of Dukkha. |
Cho thấy rằng co quá nhiều cho dấu hiệu của Vô ngã từ quan điểm của Khổ Dukkha. |
The three knowledges, pertaining to the Insight which fully grasps the meaning of the Three Marks, are called Tirana-parinna. |
Ba trí quán xét đến Minh Sát trí nắm bắt đầy đủ ý nghĩa của Tam Tướng, được gọi là Tam tướng đạt tri (tīraṇa pariññā). |
These three knowledges pertaining to the Insight are:
Of these three Knowledges the last-mentioned must be acquired first, as it must also be acquired in fullness, in order to dispel the error of soul doctrine. And in order to obtain full acquisition of this last- mentioned Knowledge, the first must primarily be introduced for, if the first is well discerned, the last is easily acquired. As for the second, it does not culminate through the acquisition of the first. It is owing to imperfection in obtaining the second Knowledge that the transcendental Path has four grades, and that lust and conceit are left undispelled. Hence the most important thing for Buddhists to do is to free themselves entirely from the Apayadukkha, the Ills of the Realms of misery. There is no way of escaping from the Apayadukkha open to men when the Teaching of the Buddha vanish from the world. And to escape Apayadukkha means to put away all immoral actions and erroneous views. And to put away all erroneous views means to put away utterly the view of "Soul." Therefore in that life in which we are so fortunate as to encounter the Religion of the Buddha, we should strive so to contemplate or meditate upon the impermanence of things, as to bring to fullness the Insight-knowledge of No-soul. In confirmation of this, here is a quotation from the Text: |
Ba trí quán xét đến Minh Sát trí này là :
Trong ba Trí quán này, Trí quán được đề cập đến cuối cùng là quán chiếu vô ngã phải được lĩnh hội trước, vì nó cũng phải được lĩnh hội một cách đầy đủ, để xua tan sai lầm của học thuyết vô ngã. Và để có được sự tiếp thu đầy đủ trí quán vô ngã, phải thuần thục về trí quán vô thường; nếu trí quán vô thường được hoàn hảo thì dễ dàng đạt được trí quán vô ngã hoàn hảo. Đối với trí quán về khổ, nó không đạt đến đỉnh điểm thông qua việc trí quán Vô Thường. Do sự không hoàn hảo trong việc đạt được Tri quán về khổ mà Con đường siêu việt có bốn cấp độ, và dục vọng và tính tự phụ không bị loại bỏ. Do đó, điều quan trọng nhất đối với người Phật tử phải làm là giải thoát bản thân hoàn toàn khỏi khổ cảnh Apāyadukkha, những cảnh khổ của các cõi khổ. Không có cách nào thoát khỏi cảnh khổ đau - Apāyadukkha mở ra cho con người khi Giáo lý của Đức Phật biến mất khỏi thế giới. Và để thoát khỏi Cảnh Khổ - Apāyadukkha có nghĩa là từ bỏ mọi bất thiện pháp và quan điểm tà kiến. Và loại bỏ mọi quan điểm tà kiến có nghĩa là loại bỏ hoàn toàn quan điểm về "Tự Ngã". Vì vậy, trong kiếp sống mà chúng ta may mắn gặp được Giáo Pháp của Đức Phật, chúng ta nên cố gắng như vậy để quán chiếu hay thiền định về sự vô thường của các vạn pháp, hầu mang đến sự viên mãn Tuệ giác về Vô Ngã. Để xác nhận điều này, đây là một trích dẫn từ Đoạn kinh văn Pali kinh (i) (Ud 34) Tôn giả Meghiya (Meghiyasuttaṃ.) : |
"“Aniccasaññino Meghiya anattasaññā saṇṭhāti anattasaññino samugghātaṃ pāpuṇāti diṭṭhe’va dhammā nibbānaṃ”. "To him, 0 Meghiya, who comprehends Impermanence, the comprehension of No-soul manifests itself. And to him who comprehends No-soul, the fantasy of an 'I' presiding over the Five Aggregates is brought to destruction; and even in this present life he attains Nibbana."
There is no need for us to expatiate upon the truth of this text for we have already shown how the mark of Impermanence can become the mark also of No-soul. |
“Aniccasaññino Meghiya anattasaññā saṇṭhāti anattasaññino samugghātaṃ pāpuṇāti diṭṭhe’va dhammā nibbānaṃ”. "Này Meghiya, với ai có tưởng vô thường, tưởng vô ngã được an trú. Với ai có tưởng vô ngã, vị ấy đạt được sự nhổ lên kiêu mạn: tôi là, Niết-bàn ngay trong hiện tại." (HT Thích Minh Châu dịch Việt) Và đối với người thấu hiểu Vô Ngã, ảo tưởng về một cái 'tôi' làm chủ Năm uẩn sẽ bị hủy diệt; và ngay trong kiếp sống hiện tại này, vị ấy đạt được Niết bàn.” Chúng ta không cần phải giải thích về sự thật của đoạn kinh văn này vì chúng ta đã chỉ ra làm thế nào dấu ấn của Vô thường cũng có thể trở thành dấu ấn của Vô Ngã. |
The Insight exercises can be practised not only in solitude as is necessary in the case of the exercise of Calm or Samatha, but they can be practised everywhere. Maturity of knowledge is the main, the one thing required. For, if knowledge is ripe, the Insight of Impermanence may easily be accomplished while listening to a discourse, or while living a householder's ordinary life. To those whose knowledge is developed, everything within and without oneself, within and without one's house, within and without one's village or town, is an object at the sight of which the Insight of lmpermanence may spring up and develop. But those whose knowledge is yet, so to speak, in its infancy, can accomplish this only if they practise assiduously the exercise in Calm. |
Sự tu tập Thiền Minh Sát có thể được thực hành ở mọi nơi, riêng Thiền Định cần phải một mình tĩnh lặng Sự thuần thục về kiến thức (tuệ) là chính, là điều bắt buộc. Bởi vì, nếu tuệ đã phát triển, hiểu rõ về Vô thường có thể dễ dàng được thành tựu trong khi nghe một bài kinh, hoặc trong khi sống cuộc sống bình thường của một gia chủ. Đối với những tuệ đã được phát triển, nhìn rõ mọi thứ bên trong và bên ngoài chính mình, bên trong và bên ngoài ngôi nhà của mình, bên trong và bên ngoài ngôi làng hay thị trấn của mình, đều là một đối tượng mà Tuệ giác về vô thường có thể nảy sinh và phát triển trong tầm nhìn. Nhưng những người trí tuệ chưa sung mãn, có thể nói là còn sơ khai, chỉ có thể hoàn thành điều này nếu họ siêng năng thực hành bài tập trong Tĩnh lặng. |
The consideration of the momentary deaths which occur innumerable times even during the wink of an eye, are only required in discussion upon Abhidhamma. But in meditating or practising the exercises in Insight, all that is needed is consideration of the (santati vipariṇāma) and the (santati aññathābhāva), that is, of the radical change and of the sequent change of the continua, things which are visibly evident to, and personally experienced, by, every man alive. |
Việc xem xét những cái chết (diệt) trong từng sátna xảy ra vô số lần ngay cả trong nháy mắt, chỉ để thảo luận trong lãnh vực Abhidhamma. Nhưng khi thiền định hoặc thực hành các bài tập trong Thiền Minh Sát, tất cả những gì cần thiết là quán chiếu các pháp sinh liên tục (santati vipariṇāma) và liên tục thay đổi (santati aññathābhāva), nghĩa là sự thay đổi cơ bản và sự thay đổi liên tục của dòng tương tục của các Pháp (Sinh và Diệt), những thứ có thể thấy rõ và được trải nghiệm. bởi, mọi con người trong đời sống. |
The exercises in Insight that ought to he taken up are first, the Four Great Elements from among the material qualities, and the six classes of cognition from among the mental qualities. If one can discern the arisings, and ceasings of the Four Elements innumerable times in one day alone, the changes, or the risings and ceasings of the rest (i.e., upadarupas: the derivative material qualities) are also discerned. Of the mental qualities also, if the changes of consciousness are discerned, those of the mental concomitants are simultaneously discerned. In particular, feelings, perceptions, volitions, and so forth, from among the mental qualities, and forms, odours, and so forth from, among the material qualities, which are extraordinary may be taken as objects for the exercise, as they will quickly enable a meditator to acquire with ease the Insight of Impermanence. |
Các bài thực hành về Thiền Minh sát mà hành giả nên tu tập trước hết là quán xét Tứ Đại trong các Sắc Pháp, và sáu loại nhận thức trong các Danh Pháp. Nếu một người có thể phân biệt sự sinh và diệt của Tứ đại vô số lần chỉ trong một ngày, thì những thay đổi, hoặc sự sinh và diệt của phần còn lại (tức là, upādārūpā – sắc y sinh: các đặc tính vật chất phái sinh) cũng được phân biệt. Về những Danh Pháp cũng vậy, nếu những thay đổi của tâm được quan sát thấy rõ, thì những tính chất của những tâm sở đồng hành cũng được quan sát cùng lúc. Đặc biệt, cảm giác, tri giác, hành động, v.v., trong số các Danh Pháp, và các hình thức, mùi, v.v., trong số các Sắc Pháp, khác có thể được lấy làm đối tượng để thực hành, vì chúng sẽ nhanh chóng giúp hành giả dễ dàng đạt được Tuệ giác về Vô thường. |
However, from the philosphical point of view, the Insight is acquired in order to dispel such notions as "creatures," "persons," "soul," "life," "permanence," "pleasures," and to get rid of hallucinations. The acquisition of Insight also mainly depends on a sound grasp of the Triple Marks, which have been sufficiently dealt with already. |
Tuy nhiên, theo quan điểm triết học, Thiền Minh sát đạt được là để xua tan các khái niệm như "sinh vật", "con người", "linh hồn", "cuộc sống", "trường tồn", "hành lòng" và để thoát khỏi ảo giác. Việc đạt được Tuệ giác cũng chủ yếu phụ thuộc vào việc nắm bắt vững chắc Tam Tướng: Vô Thường, Khổ Đau và Vô Ngã, như đã được trình bày đầy đủ. |
So much for the exposition of Tiranaparinna. |
Việc giải thích về Tīraṇa pariññā, sự hiểu biết trọn vẹn về thẩm sát (toàn tri về thẩm sát, hay tuệ tri). đã được đầy đủ. |
Pahāna PariññāIn Buddhist philosophy there are five kinds of Pahana which it is necessary to deal with:
In order to make them clear, the three periods of the Defilements which are called Bhumi must here be mentioned. |
Pahāna Pariññā (diệt trừ hoàn hảo).Trong triết học Phật giáo có năm loại pahāna (diệt trừ) cần phải nói tới: :
Để cho rõ ràng, ba giai đoạn Phiền não được gọi là nơi trú (Bhumi - Vùng) của chúng được đề cập ở đây. |
They are:
Of these three, Anusayabhumi means the period during which the Defilements do not come into existence as mental properties representing themselves in the three phases of time, i. e., nascent, static, and arrested, but lie latent surrounding the life-continuum. |
Chúng là:
Trong ba giai đoạn này, giai đoạn Vùng ngủ yên (anusayabhūmi). là khoảng thời gian Phiền não không tồn tại dưới dạng các đặc tính tinh thần tự biểu hiện trong ba giai đoạn thời gian, như là: sinh, trụ và diệt, nhưng nằm tiềm ẩn xung quanh dòng chảy của sự sống. |
Pariyutthanabhumi means the period at which the Defilements come into existence from the latent state as mental properties at the mind-door when any object which has power to wake them up produces perturbance at one of the six doors. |
Vùng bộc phát (pariyuṭṭhānabūmi) là khoảng thời gian mà Phiền não xuất hiện từ trạng thái tiềm ẩn như những đặc tính tinh thần ở ý môn (cảnh săc, cảnh thinh, cảnh mừi, cảnh vị, cảnh xúc và cảnh pháp khi bất kỳ đối tượng nào có khả năng đánh thức chúng tạo ra sự nhiễu loạn ở một trong sáu cửa. |
Vitikkamabhumi means the period at which the Defilements become so fierce and ungovernable that they produce sinful actions in deed and word, Thus, in the revolution of existences that have no known beginning, every Greed that follows a creature's life contiuum has three bhumis. Similarly, the rest of the Defilements, error, dullness, conceit, and so forth, have three periods each. |
Vùng vi phạm (vītikkamabhūmi) là giai đoạn mà tại đó Phiền não trở nên dữ dội và không thể chế ngự được đến nỗi chúng tạo ra những hành động tội lỗi trong thân và khẩu. Vì vậy, trong vòng xoay của sự hiện hữu không có điểm khởi đầu, mọi Tham lam đi theo dòng đời của một sinh vật đều có ba nơi trú (bhumis - Vùng). Tương tự như vậy, các Phiền não còn lại, sai lầm, si mê, ngã mạn, v.v., mỗi loại có ba giai đoạn. |
In Buddhist ethics, there are three sikkhā, namely, sīla sikkhā, the training of morality; samādhi sikkhā the training of ecstatic thought; and paññāsikkhā, the training of lnsight. Of these three, the first training, that is the training of morality, is able to dispel or put away only the third (vītikkamabhūmi) of the Defilements. As there remain two Bhumis undispelled, the Defilements which are got rid of by Sila would again arise and soon fill up till they reached the vītikkamabhūmi. Therefore, the putting away by Sila is called the tadaṅgapahāna, which means the temporary putting away. |
Trong đạo đức Phật giáo, có ba sự học tập (sikkhā), đó là Giới học(sīla sikkhā) sự rèn luyện đạo đức; định học (samādhi sikkhā) là sự rèn luyện tâm định; và tuệ học (paññāsikkhā). sự rèn luyện tuệ giác. Trong ba điều này, sự tu tập đầu là sự rèn luyện về giới, để diệt trừ hoặc xua tan vùng vi phạm (vītikkamabhūmi) là giai đoạn mà tại đó Phiền não trở nên dữ dội phải loại bỏ. Vì vẫn còn hai nơi trú (Bhumis) chưa được giải trừ, nên những Phiền não đã bị Giới học (Sila) loại bỏ sẽ lại phát sinh và nhanh chóng đầy lên cho đến khi chúng đạt đến vùng vi phạm (vītikkamabhūmi). Do đó, sự diệt bỏ bằng Giới được gọi là tadaṅgapahāna, có nghĩa là sự diệt trừ tạm thời. |
The second training, that is, the training of ecstatic thought in the first Jhana, the second Jhana, and so forth, is able to dispel or put away only the second, the Pariyutthana-bhumi of the Defilements which have been left undispelled by Sila. As there still remains the Anusaya-bhumi undispelled, the Defilements which were put away by Jhana would soon arise and fill up till they reach the Vitikkamabhumi if obstacles to the Jhana were encountered. Therefore the putting away by Samadhi is called Vikkhamphana-pahana, which means the putting away to a distance. Here Jhana can dispose of the Defilements for a considerable time so that they do arise again soon, for it is ecstatic moral culture and more powerful than the sila. |
Sự tu tập thứ hai, định học, là sự tu tập các tầng thiền từ Sơ thiền, Nhị thiền, v.v., chỉ có thể xua tan hoặc loại bỏ phần thứ hai, Vùng bộc phát (pariyuṭṭhānabūmi) là khoảng thời gian mà Phiền não xuất hiện từ trạng thái tiềm ẩn của Phiền não mà Giới không xua đuổi được. Vì Vùng ngủ yên (anusayabhūmi). là khoảng thời gian Phiền não không tồn tại dưới dạng các đặc tính tinh thần vẫn còn chưa bị đánh tan, nên những Phiền não đã bị các tầng thiền Jhana loại bỏ sẽ nhanh chóng phát sinh và lấp đầy cho đến khi chúng đạt đến Vùng vi phạm (vītikkamabhūmi) nếu gặp phải những trở ngại đối với các tầng thiền Jhana. Do đó, việc tu tập bằng Thiền An Chỉ (Samadhi) được gọi là “gián đoạn diệt trừ (vikkhambhanapahāna- còn gọi là áp chế đoạn trừ), có nghĩa là đưa ra xa. Ở đây các tầng Thiền Jhana có thể loại bỏ Phiền não trong một thời gian đáng kể để chúng sớm phát sinh trở lại, vì đó là nền văn hóa đạo đức cực lạc và mạnh mẽ hơn giới luật. |
The third training, that is, the training in the Knowledge that belongs to Insight and in the Knowledge that pertains to the Transcendental Path, is able to dispel or put away the first Anusayabhūmi, of the Defilements that have been left undispelled by Sila and Samadhi. The Defilements that are entirely got rid of through the said knowledge, leaving nothing behind, will never rise again. Therefore the putting away by (paññā is called the samucchedapahāna, which means, literally, the "Cutting-off, Putting-away." The knowledge that pertains to Transcendental Fruition puts the Defilements away by tranquillizing the same Defilements that have been put away by the knowledge that pertains to the Transcendental Path, and this putting away is called the paṭipassaddhi pahāna. The putting away by entering Nibbana is called the nissaraṇapahāna, which means the utter relinquishment of an escaping from, the ties of existences for ever and ever. Now we have seen that knowledge is of three kinds. Knowledge of Insight, Knowledge pertaining to the Transcendental Path and Knowledge pertaining to Transcendental Fruition. Of these, though the Knowledge of Insight is able to put away the Anusayabhūmi, it is not able to put it away completely. Only the knowledges pertaining to the Paths are able to put away all the defilements that respectively belong to each Path. The knowledge pertaining to the sotāpatti magga, the First Path, dispels utterly and eradicates all erroneous views and perplexities. It also dispels all immoral actions which would result in life in the realms of misery, so that they do not rise again. The knowledge that pertains to sakadāgāmi magga, the second path, dispels all coarse lust and hate. The knowledge pertaining to anāgāmi magga, the Third Path, dispels all subtle lust and ill-will which have been left undispelled by the Second Path. To him (the Anāgāmī-puggalo, Never-Returner) the link of kinship with the world is broken, and the Brahma-loka is the only sphere where he may take rebirth. The knowledge pertaining to the Arahatta-magga, the Fourth Path, dispels the Defilements which are left undispelled by the lower paths. And he (the Arahatta-puggalo, one who kills all Defilements), becomes the Arahant, and escapes from the three Lokas or worlds. In our Buddhist Religion this sammuccheda pahāna is the chief thing to be accomplished. |
Sự rèn luyện thứ ba, Tuệ học, tức là sự tu tập Trí thuộc về Minh Sát và Trí thuộc về Đạo Siêu Thế, có khả năng diệt trừ hoặc loại bỏ Anusayabhūmi,Vùng ngủ yên đầu tiên của các Phiền não mà Giới và định không xua đuổi được. Những Phiền não đã hoàn toàn bị loại bỏ nhờ kiến thức nói trên, không để lại gì phía sau, sẽ không bao giờ trỗi dậy nữa. Do đó, sự gạt bỏ của trí tuệ (paññā) được gọi là tận trừ (samucchedapahāna)” có nghĩa đen là "Cắt đứt, Sự gạt bỏ." Sự hiểu biết liên quan đến Quả Siêu Thế loại bỏ Phiền não bằng cách làm tĩnh lặng những Phiền não tương tự đã được loại bỏ bởi trí tuệ liên quan đến Đạo Siêu Thế, và sự loại bỏ này được gọi là khinh an diệt trừ (paṭipassaddhi pahāna)”. Việc buông bỏ bằng cách nhập Niết-bàn được gọi là nissaraṇapahāna hay viên tịch (parinibbāna), có nghĩa là sự từ bỏ hoàn toàn của một sự thoát ly khỏi những ràng buộc của kiếp sống mãi mãi. Bây giờ chúng ta đã thấy rằng tuệ học có ba loại: Tuệ Minh Sát (Tuệ Quán), Tuệ Trí liên quan đến Đạo Siêu Thế và Tuệ Quả liên quan đến Quả Siêu Thế. Trong số này, tuy Tuệ Minh Sát có thể đoạn trừ Anusayabhūmi -Vùng ngủ yên, nhưng không thể đoạn trừ nó hoàn toàn. Chỉ những tri kiến liên quan đến các Tuệ Đạo mới có thể đoạn trừ tất cả các phiền não tương ứng thuộc về mỗi Con đường đạo. Trí tuệ liên quan đến Tuệ Đạo Dự lưu (sotāpatti magga), (Tuệ Đạo đầu tiên), hoàn toàn xua tan và diệt trừ mọi quan điểm sai lầm và sự mê muội. Nó cũng xua tan mọi hành động bất thiện dẫn đến cuộc sống trong các cõi đau khổ (bốn cõi khổ), để chúng không thể sinh khởi được. Trí tuệ liên quan đến Tuệ Đạo Nhất lai (sakadāgāmi magga), con đường thứ hai, xua tan mọi tham và sân thô thiển. Trí tuệ liên quan đến Tuệ Đạo Bất lai (anāgāmi magga), Con Đường Thứ Ba, xua tan mọi tham dục và ác ý vi tế mà chưa được diệt trừ ở Đạo Thứ Hai không thể xua tan. Đối với bậc Bất Lai Anahàm (Anāgāmī-puggalo, không tái sinh) không còn ái dục và sân, mối liên hệ họ hàng với thế gian đã xóa bỏ, và Phạm thiên giới là cõi duy nhất mà vị ấy có thể tái sinh vào. Trí tuệ liên quan đến Tuệ Đạo Alahán (Arahatta magga), Tuệ Đạo thứ tư, xua tan hết các Phiền não còn lại mà các con đường thấp hơn không xua đuổi được. Và vị ấy trở thành bậc Alahán (Arahatta-puggalo, người đã diệt trừ mọi Phiền não), trở thành A-la-hán, và thoát khỏi tam giới. Trong Giáo Pháp của Đức Phật, tận trừ (sammuccheda pahāna) là điều chính yếu cần phải được hoàn thành. |
So much for the Pahāna Pariññā. Now I will indicate the main points necessary to those who practise the exercises of Insight. Of the three knowledges of Insight, the knowledge of Impermanence must first and foremost be acquired. How ? If we carefully watch the cinematograph show, we will see how quick are the changes of the numerous series of photographs representing the wonderful scene, all in a moment of time. We will also see that a hundred or more photographs are required to represent the scene of a moving body. These are, in fact, the functions of Viparinama and Annathabhava, or the representation of Impermanence or Death, or cessation of movements. If we carefully examine the movements in a scene, such as the walking, standing, sitting, sleeping, bending, stretching, and so forth, of the parts of the body during a moment of time, we will see that these are full of changes, or full of Impermanence. Even in a moment of walking, in a single step taken with the foot, there are numerous changes of pictures which may be called Impermanence or death. It is also the same with the rest of the movements. Now we must apply this to ourselves. The Impermanence and the death of mental and material phenomena are to be found to the full in our bodies, our heads, and in every part of the body. If we are able to discern clearly those functions of impermanence and death which are always operating in our bodies, we shall acquire the Insight of the Destruction, the breaking-up, falling-off, cessation, and changes of the various parts of the body in each second, in each fraction of a second. That is to say, we will discern the changes of every part of the body small and great, of head, of legs, of hands and so forth and so on. If this be thus discerned, then it may be said that the exercise on the contemplation of impermanence is well accomplished. And if the exercise on the contemplation of impermanence is well accomplished, then that of the contemplation of Non-soul is also accomplished. If this is thus discerned, then it may be said that the exercise on the contemplation of Impermanence is well accomplished. By the word "accomplished," it is meant that the exercise has been properly worked out so as to continue a permanent possession, during the whole term of life, but it is not meant that the knowledge of the Path and of Fruition, has been attained. The attainment of the knowledge of the Path and Fruition, however is quick or slow, according to opportunity or lack of opportunity, in the practice of higher virtues. It is also very difficult correctly to become aware of the attainment of the Path and of the Fruits. In fact, even the Ariyan who has attained the First Path hardly knows that he has become an attainer of the Path-of-the-Stream. Why? Because of the unfathomableness of the latent period of the Defilements. Those Yogis or meditators who do not know the unfathomableness of the latent period of the Defilements, sometimes think themselves to be attainers of Path-of- the-Stream, while as yet, their erroneous views and perplexity are only partially, but not completely, put away. If error and perplexity with all their latent states, are eradicated by the Samuccheda-pahana, they would become the real attainers of the Path-of-the-Stream. The meditators or practisers of Insight, however, for the whole term of life, must gladly continue in the exercise on the contemplation of Impermanence until the exercise is systematically worked out. Even the Arahants do not give up these exercises for the securing of tranquillity of mind. If meditators practise these exercises for the whole term of life, their knowledge will be developed till they passed beyond the Puthujjana-bhumi and arrive at the Ariya-bhumi either before death or at the time of death, either in this life or in the life following, in which latter they will be reborn as Devas. |
Pahāna Pariññā - diệt trừ hoàn hảo đã được trình bày đầy đủ Bây giờ tôi sẽ chỉ ra những điểm chính cần thiết cho những người tu tập Thiền Minh Sát. Trong ba tuệ minh sát, trí tuệ về Vô thường trước hết phải được lĩnh hội. Làm cách nào ? Nếu chúng ta xem kỹ buổi chiếu phim, chúng ta sẽ thấy sự thay đổi nhanh chóng của vô số hình ảnh cho các cảnh tuyệt vời, tất cả chỉ trong một khoảnh khắc. Chúng ta cũng sẽ thấy rằng cần phải có hàng trăm bức ảnh trở lên để thể hiện cảnh một vật thể đang chuyển động. Trên thực tế, đây là những chức năng của thay thế (vipariṇāma) và biến đổi (aññathābhāva), hay sự biểu thị của Vô Thường hay Cái Chết, hay sự chấm dứt của các chuyển động. Nếu chúng ta xem xét cẩn thận các chuyển động trong một cảnh, chẳng hạn như đi, đứng, ngồi, ngủ, co, duỗi, v.v. của các bộ phận trong cơ thể trong một khoảnh khắc thời gian, chúng ta sẽ thấy rằng chúng có đầy những thay đổi , hay đầy Vô Thường. Ngay trong một khoảnh khắc bước đi, trong một bước chân thôi cũng có muôn vàn hình ảnh thay đổi có thể gọi là Vô Thường hay Chết. Tương tự với các động tác còn lại. Bây giờ chúng ta phải áp dụng điều này cho chính mình. Tính chất Vô thường và sự chết của các Danh và Sắc được tìm thấy đầy đủ trong cơ thể chúng ta, trong đầu chúng ta và trong mọi bộ phận của cơ thể. Nếu chúng ta có thể phân biệt rõ ràng những cơ năng của vô thường và sinh diệt luôn vận hành trong thân chúng ta, thì chúng ta sẽ đạt đến Tuệ về sự diệt trừ của các bộ phận trong cơ thể. trong mỗi giây, trong mỗi phần của giây. Điều đó có nghĩa là, chúng ta sẽ phân biệt những thay đổi lớn nhỏ của từng bộ phận của cơ thể, của đầu, chân, tay, v.v. Nếu điều này được quán như vậy, thì có thể nói rằng sự thực tập quán về vô thường đã được thành tựu tốt đẹp. Và nếu thực tập quán vô thường được thành tựu tốt đẹp, thì thực tập quán Vô ngã cũng được thành tựu. Nếu điều này được phân biệt như vậy, thì có thể nói rằng việc thực tập quán về Vô thường đã được hoàn thành tốt đẹp. Cụm từ "đã hoàn thành" có nghĩa là sự thực hành đã được thực hiện đúng đắn để tiếp tục sở hữu vĩnh viễn, trong suốt thời gian của cuộc sống, nhưng không có nghĩa là sự hiểu biết về Đạo và Quả, đã được đạt được. Sự chứng ngộ Đạo và Quả nhanh hay chậm, tùy theo cơ hội hay không có cơ hội, trong việc thực hành các giới hạnh cao hơn. Cũng rất khó nhận biết một cách đúng đắn về việc đạt được Đạo và Quả. Thực ra, ngay cả bậc Thánh đã chứng đắc Sơ Đạo cũng khó biết rằng mình đã trở thành một chứng đắc Thánh Đạo. Tại sao? Vì sự không thể dò lường của thời kỳ tiềm tàng của Phiền não. Những vị hành giả Yogi hay thiền sinh nào không biết được tính chất không thể đo lường của thời kỳ tiềm tàng của Phiền não, đôi khi tự cho mình là những người đã đạt đến Đạo quả Nhập Lưu, trong khi cho đến nay, những quan điểm sai lầm và sự bối rối của họ chỉ là một phần, chứ không hoàn toàn loại trừ.
Khi những tà kiến và nghi ngờ với tất cả các trạng thái tiềm ẩn của chúng được diệt trừ bởi tận trừ (sammuccheda pahāna), vị ấy sẽ trở thành những người chứng đắc thực sự của Đạo Dự Lưu. Tuy nhiên, các thiền giả hay hành giả Minh Sát, trong suốt cuộc đời, phải tiếp tục thực tập quán về Vô thường cho đến khi thực tập được thuần thục một cách có hệ thống. Ngay cả các bậc A-la-hán cũng không từ bỏ các bài tập này để đảm bảo tâm an định. Nếu thiền sinh thực hành các bài tập này trong suốt cuộc đời, kiến thức của họ sẽ được phát triển cho đến khi họ vượt qua lãnh vực phàm nhân (Puthujjana-bhumi) và đạt đến bậc Thánh (Ariya-bhumi)trước khi chết hoặc vào lúc chết, trong kiếp này hoặc kiếp sau. sau đó, họ sẽ được tái sinh vào cõi Chư Thiên (Devas). |
Here the concise Vipassana-dipani, or the Outline of the Exercises of Insight for the Buddhists of Europe, comes to a close. It was written in Mandalay, while I was sojourning in the Ratanasiri Monastery, where the annual meeting of the Society for Propagating Buddhism in Foreign countries took place; and it was finished on the 14th waxing of Taboung in the year 2458 B.E., corresponding to the 26th February, 1915 C. E. |
Đến đây, bài Vipassana-dipani - Minh Sát diễn giải ngắn gọn, hay Đại cương về sự tu tập Thiền Minh sát dành cho Phật tử Châu Âu, đến đây là kết thúc. Nó được viết ở Mandalay, khi tôi đang tạm trú tại Tu viện Ratanāsīri, , nơi diễn ra cuộc họp thường niên của Hội Truyền bá Phật giáo Hải ngoại; và nó được hoàn thành vào ngày 14 tháng 10 tại Taboung vào năm 2458 B.E., nhằm ngày 26 tháng 2 năm 1915 C.E. |
Cập nhập ngày:
Thứ Năm 27-4-2023 |
|
| | trở về đầu trang | Home page | |